I Tê-sa-lô-ni-ca: Chương Hai

8 lượt xem

I Tê-sa-lô-ni-ca 2:1-12 Phẩm Chất của Người Rao Giảng Tin Lành

Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Yêu Thương của con,

Con cảm tạ Cha đã gìn giữ con qua một đêm ngủ nghỉ bình an. Sáng hôm nay Ngài cũng ban cho con có thời gian ngồi ghi lại những sự suy ngẫm của con về phân đoạn I Tê-sa-lô-ni-ca 2:1-12. Con cảm tạ Cha vẫn hằng ban ơn, dạy dỗ con. Nguyện rằng những sự suy ngẫm của lòng con được đẹp ý Ngài, được Ngài vui nhận.

1 Hỡi các anh chị em cùng Cha! Vì chính các anh chị em biết rằng, sự chúng tôi đã đến với các anh chị em chẳng phải là vô ích.
2 Dù sau khi bị đau đớn và bị làm nhục tại thành Phi-líp, như các anh chị em đã biết, thì chúng tôi mạnh dạn trong Đức Chúa Trời của chúng ta, cứ rao truyền Tin Lành của Đức Chúa Trời cho các anh chị em trong nhiều sự tranh đấu.

Câu 1 và 2: Thưa Cha, con hiểu rằng, hai câu này Sứ Đồ Phao-lô nhắc lại cho con dân Chúa tại Tê-sa-lô-ni-ca nhớ về hoàn cảnh khó khăn ban đầu khi Tin Lành đến với họ. Trước khi đến Tê-sa-lô-ni-ca thì Phao-lô và Si-la đã bị đánh đòn và bị bỏ tù tại thành Phi-líp. Nhưng đó cũng là điều Chúa cho phép xảy ra để mang Tin Lành Cứu Rỗi đến cho viên cai ngục và gia đình ông (Công Vụ Các Sứ Đồ 16). Trong khi rao giảng Tin Lành tại Tê-sa-lô-ni-ca thì các sứ đồ gặp sự chống đối của những người Do-thái theo Do-thái Giáo, khiến cho không thể nán lại lâu mà phải tránh đến thành Bê-rê.

Tuy nhiên, điều vui mừng là sự mạnh dạn rao giảng Tin Lành của Phao-lô và các bạn của ông tại Tê-sa-lô-ni-ca đã chẳng trở nên vô ích. Kết quả tranh đấu của họ đã giúp nhiều người Tê-sa-lô-ni-ca nghe biết đến Tin Lành và có nhiều người tiếp nhận Chúa, Hội Thánh tại địa phương được hình thành và sống động trong đức tin, trở thành tấm gương của nhiều Hội Thánh tại các địa phương khác.

3 Vì sự khích lệ của chúng tôi chẳng ra từ sự sai lầm, cũng chẳng ra từ ý không thanh sạch, cũng không bởi sự gian trá;
4 nhưng theo sự Đức Chúa Trời đã xét chúng tôi là đáng tin cậy để giao cho việc giảng Tin Lành. Vậy, chúng tôi nói, không phải để đẹp lòng loài người, nhưng để đẹp lòng Đức Chúa Trời, Đấng dò xét lòng chúng tôi.

Câu 3 và 4: Con hiểu rằng, theo câu 4 thì Phao-lô và các bạn của ông được khích lệ để dấn thân tranh đấu là vì được Đức Chúa Trời tin cậy giao phó chức vụ giảng Tin Lành. Vì thế, con xin diễn ý lại câu 3 theo sự hiểu của con như sau:

“Vì sự khích lệ của chúng tôi là ra từ Đức Chúa Trời chứ chẳng ra từ sự sai lầm, cũng chẳng ra từ ý không thanh sạch, cũng không bởi sự gian trá;”

Con hiểu là Sứ Đồ Phao-lô có hàm ý so sánh:

– Đức Chúa Trời là toàn tri nên sự ra từ Ngài là không thể sai lầm, so sánh với giáo lý của các tôn giáo, triết học của thế gian, nghe có vẻ hợp lý nhưng thật sự đều sai lầm.
– Đức Chúa Trời là toàn thánh, mọi ý tưởng ra từ Ngài đều là thánh khiết, mọi ý tưởng của Ngài đều là bình an (Giê-rê-mi 29:11), so sánh với mọi ý tưởng của loài người, khi chưa tin nhận Chúa, thì đều là không thanh sạch, ích kỷ, vụ lợi.
– Đức Chúa Trời là toàn chân, mọi sự ra từ Ngài đều chân thật, so sánh với mọi sự ra từ loài người, khi chưa tin nhận Chúa, đều hàm chứa sự gian trá.

Khi suy ngẫm về việc Phao-lô và các bạn của ông thấy được khích lệ vì được Đức Chúa Trời tin cậy và giao phó cho việc giảng Tin Lành thì con nhớ đến lúc nhỏ, khi con được các thầy cô tin tưởng, giao phó việc gì đó, thì mình cũng thấy được khích lệ.

5 Vì, như các anh chị em đã biết, không bao giờ chúng tôi dùng những lời dua nịnh, cũng không bởi lòng tham, có Thiên Chúa chứng cho.
6 Chúng tôi cũng không tìm sự vinh quang đến từ loài người, hoặc từ các anh chị em, hoặc từ ai khác, dù chúng tôi có thể đòi hỏi vì là các sứ đồ của Đấng Christ.

Câu 5 và 6: Con hiểu rằng, vì được Đức Chúa Trời khích lệ trong chức vụ nên Phao-lô và các bạn của ông cứ gắng sức làm đẹp lòng Ngài. Các sứ đồ không bao giờ dùng những lời dua nịnh, cũng không bởi lòng tham, để rao giảng Tin Lành vì ý thức được rằng Đấng mà mình phụng sự là toàn chân (hoàn toàn chân thật), toàn chính (hoàn toàn công chính).

Câu 6 là Phao-lô hàm ý, các sứ đồ không tìm sự khen ngợi hay sự phục vụ từ những người được họ giảng Tin Lành, như các giáo sư giả, tiên tri giả, bắt con dân Chúa phải tôn cao và cung phụng họ. Đây là một thực trạng đầy dẫy trong các giáo hội ngày nay.

7 Nhưng chúng tôi đã dịu dàng giữa các anh chị em, như một người vú ấp ủ các con của mình.
8 Vậy, vì lòng khao khát yêu thương của chúng tôi đối với các anh chị em, chúng tôi sẵn lòng ban cho các anh chị em không chỉ Tin Lành của Đức Chúa Trời mà cả chính sự sống của chúng tôi nữa, bởi các anh chị em đã trở nên thân thiết với chúng tôi.

Câu 7 và 8: Con hiểu rằng, Sứ Đồ Phao-lô dùng hình ảnh người vú dịu dàng ấp ủ các con của mình, để nói lên tình cảm của ông và các bạn của ông trong sự dùng Tin Lành để nuôi dưỡng đức tin của con dân Chúa. Đây là một cách ví von rất gợi hình, giúp người nghe cảm nhận được tình yêu thương, sự ân cần.

Con hiểu câu “các anh chị em đã trở nên thân thiết với chúng tôi” nghĩa là con dân Chúa tại Tê-sa-lô-ni-ca được gắn kết, hiệp một với các sứ đồ. Sự hiệp một này thứ nhất là bởi quyền năng của Đức Thánh Linh, Ngài làm cho các con dân chân thật của Chúa cảm nhận được mối liên kết, ràng buộc với nhau trong tâm thần, dù có thể trong thực tế mới chỉ gặp mặt, quen biết nhau trong một ngày. Thứ hai là bởi con dân Chúa tại Tê-sa-lô-ni-ca có tấm lòng đơn sơ vâng phục sự giảng dạy của các sứ đồ.

9 Hỡi các anh chị em cùng Cha! Vì các anh chị em nhớ công lao và sự khó nhọc của chúng tôi, làm việc cả ngày lẫn đêm, để cho khỏi lụy đến một người nào trong các anh chị em, đang khi chúng tôi giảng Tin Lành cho các anh chị em,
10 các anh chị em là những người chứng, và Đức Chúa Trời cũng vậy, rằng chúng tôi đã sống cách thánh sạch và công chính, không chỗ trách được giữa các anh chị em là những tín đồ.

Câu 9 vào 10: Con hiểu rằng, có lẽ khi chứng kiến đời sống của đa số con dân Chúa tại Tê-sa-lô-ni-ca là vô cùng nghèo khó thì các sứ đồ đã hết sức làm việc kiếm sống tại địa phương để không phiền lụt đến người nào, vừa là để làm gương tốt cho Hội Thánh. Sự làm việc cả ngày lẫn đêm trong khi vẫn giảng Tin Lành cho Hội Thánh, có thể là trong một tuần các sứ đồ dành ra vài ngày để chuyên tâm làm việc kiếm sống và làm suốt từ sáng sớm cho đến khuya, các ngày còn lại thì chuyên tâm rao giảng Tin Lành, riêng Sa-bát thì dành trọn cả ngày để giảng dạy, thông công với Hội Thánh.

11 Các anh chị em cũng biết rằng, chúng tôi đã khích lệ, khuyên bảo, và làm chứng cho mỗi người trong các anh chị em, như một người cha đối với con cái của mình,
12 để các anh chị em bước đi một cách xứng đáng với Đức Chúa Trời, Đấng đã gọi các anh chị em vào trong vương quốc và sự vinh quang của Ngài.

Câu 11 và 12: Con hiểu rằng, trong sự thông công với Hội Thánh Chúa tại Tê-sa-lô-ni-ca, các sứ đồ đã dùng nhiều lời khích lệ, khuyên bảo, và làm chứng để con dân Chúa có tấm gương nhìn biết đời sống mới trong Chúa là thế nào, để bắt chước theo.

Con cảm tạ Cha đã ban cho con những sự hiểu trên đây. Nguyện rằng sự suy ngẫm Lời Ngài là nguồn năng lực giúp con hoàn thành các công việc khác trong ngày hôm nay. Con cảm tạ Cha! A-men.


I Tê-sa-lô-ni-ca 2:13-20 Sự Trung Tín của Những Người Tin Nhận Tin Lành Là Mão Vinh Quang của Người Rao Giảng Tin Lành

Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Yêu Thương của con,

Con cảm tạ Cha đã gìn giữ con qua một ngày bình an, ban ơn cho mọi việc tay con làm. Con cảm tạ Cha tối hôm nay cũng ban cho con có thời gian ngồi viết lại sự suy ngẫm của mình về phân đoạn I Tê-sa-lô-ni-ca 2:13-20.

13 Bởi vậy, chúng tôi tạ ơn Đức Chúa Trời không thôi về sự các anh chị em đã tiếp nhận Lời của Đức Chúa Trời mà các anh chị em đã nghe từ chúng tôi. Các anh chị em đã tiếp nhận, không như lời của loài người, mà thật như Lời của Thiên Chúa. Lời ấy tác động trong các anh chị em, là những người tin.

Câu 13: Thưa Cha, con hiểu rằng, Phao-lô, Si-la, và Ti-mô-thê rất đỗi vui mừng và hằng dâng lời tạ ơn Ngài về đức tin của con dân Chúa tại Tê-sa-lô-ni-ca. Con dân Chúa Tê-sa-lô-ni-ca đã tiếp nhận Lời của Đức Chúa Trời, nghĩa là, họ đã nghe, tin, và làm theo mọi lời giảng dạy từ các sứ đồ. Mặc dù lời rao giảng ra từ môi miệng của các sứ đồ nhưng trong tâm thần họ nhận thức đó là Lời phán thiêng liêng đến từ Đức Chúa Trời.

Về cách Phao-lô dùng hai cách nói “Lời của Đức Chúa Trời” và “Lời của Thiên Chúa”, thì con hiểu như sau:

– Cách nói “Lời của Đức Chúa Trời” là Phao-lô có ý nói đến nội dung những lời rao giảng về Tin Lành. Các sứ đồ rao truyền Tin Lành cho những người chưa biết Chúa và giảng dạy về sự sâu nhiệm của Tin Lành cho những người đã tin nhận, tức là Hội Thánh.

– Cách nói “Lời của Thiên Chúa” trong phép so sánh “không như lời của loài người” là Phao-lô muốn nhấn mạnh đến tính thiêng liêng, cao trọng của Tin Lành, như: Tin Lành của Thiên Chúa thì có tác động rộng khắp (sự vui mừng lớn cho muôn dân), Tin Lành có năng lực để cứu mọi kẻ tin, Tin Lành tồn tại vĩnh cửu…

14 Hỡi các anh chị em cùng Cha! Các anh chị em đã trở nên những người bắt chước các Hội Thánh của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ Jesus, tại xứ Giu-đê. Vì các anh chị em cũng đã chịu khổ bởi những người cùng xứ với mình, cũng như chính họ đã chịu khổ bởi những người Do-thái,

Câu 14: Con hiểu rằng, qua câu này mà con biết được một trong nhiều nỗi khốn khổ mà con dân Chúa tại Tê-sa-lô-ni-ca phải chịu, đó là bị bắt bớ bởi những người cùng xứ với mình, như các thánh đồ trong xứ Giu-đê.

15 là những người đã giết Đức Chúa Jesus và các tiên tri của họ, đã bách hại chúng tôi, không đẹp lòng Thiên Chúa, và thù nghịch mọi người,
16 cấm chúng tôi giảng cho các dân ngoại để các dân ấy được cứu, cứ luôn làm đầy những tội lỗi của họ. Nhưng cơn giận đã đến trên họ, cho đến cuối cùng.

Câu 15 và 16: Con hiểu rằng, hai câu này là lời Phao-lô an ủi, khích lệ các thánh đồ Tê-sa-lô-ni-ca gắng chịu khổ trong sự bị những người cùng xứ bắt bớ, bởi vì chính Đức Chúa Jesus và các tiên tri cũng đã chịu cùng một cảnh ngộ tương tự. Đồng thời đây cũng là lời cảnh báo, rằng, Đức Chúa Trời sẽ báo trả xứng đáng cho những ai bách hại con dân của Ngài.

17 Hỡi các anh chị em cùng Cha! Về phần chúng tôi, ít lâu nay, đã phải xa mặt nhưng không cách lòng với các anh chị em. Chúng tôi đã nôn nả càng hơn, khao khát thật nhiều được thấy mặt các anh chị em.

Câu 17: Con hiểu rằng, tuy về thuộc thể phải xa cách nhưng Phao-lô và các bạn của ông luôn nhớ tới con dân Chúa tại Tê-sa-lô-ni-ca và dâng lời cầu thay cho họ. Còn con dân Chúa tại Tê-sa-lô-ni-ca thì vẫn nhớ đến công lao và sự khó nhọc của Phao-lô và các bạn của ông, và gắng sức sống theo lời dạy của các sứ đồ (I Tê-sa-lô-ni-ca 2:9). Sự con dân Chúa nhớ thương nhau cũng là một sự khích lệ lẫn nhau sống thánh khiết, tấn tới trong đức tin, trong sự phụng sự Chúa.

18 Vì vậy, đã hai lần, chúng tôi, nhất là tôi, Phao-lô, muốn đến với các anh chị em; nhưng Sa-tan thật đã ngăn trở chúng tôi.

Câu 18: Con hiểu rằng, Thánh Kinh không nói rõ Sa-tan đã hai lần ngăn trở Phao-lô và các bạn của ông đến thăm con dân Chúa Tê-sa-lô-ni-ca như thế nào, nhưng đó là điều Chúa vẫn cho phép xảy ra và mục đích cuối cùng vẫn là mang lại ích lợi cho con dân Chúa. Như trường hợp Chúa cho phép Sa-tan tấn công ông Gióp và đó là cơ hội để ông tôn vinh, cảm tạ Chúa, thể hiện đức tin nơi Chúa trong nghịch cảnh.

19 Vì sự trông cậy, hoặc sự vui mừng, hoặc mão vinh quang của chúng tôi là gì? Chẳng phải là các anh chị em cũng được đứng trước Đức Chúa Jesus của chúng ta, trong sự đến của Ngài sao?
20 Vì các anh chị em là sự vinh quang và sự vui mừng của chúng tôi.

Câu 19 và 20: Con hiểu rằng, Phao-lô gọi sự con dân Chúa tại Tê-sa-lô-ni-ca đứng vững trong đức tin là sự trông cậy của ông và các bạn của ông, vì biết rằng ân điển của Thiên Chúa vẫn không ngớt trên những ai có lòng tìm kiếm Ngài, dù không có các sứ đồ bên cạnh nhưng chính Chúa sẽ dạy dỗ, chăm sóc họ. Là sự vui mừng vì thấy công khó của mình đã không trở nên vô ích. Là mão vinh quang vì biết rằng công khó rao giảng Tin Lành của mình sẽ được Chúa ban thưởng trong ngày Chúa đến.

Con cảm tạ Cha đã ban cho con những sự hiểu trên đây. Nguyện xin Cha cũng tiếp tục ban ơn cho sự làm việc của con trong tối hôm nay. Con cảm tạ Cha! A-men.

Trong ân điển của Đức Chúa Jesus Christ.
Nguyễn Ngọc Tú

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *