II Cô-rinh-tô 1:1-11 Cha của Sự Thương Xót và Thiên Chúa của Mọi Sự An Ủi
Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Yêu Thương của con,
Con cảm tạ Cha vì một ngày mới nữa Ngài ban cho con. Nguyện xin Cha ban ơn cho mọi việc tay con làm trong hôm nay. Nguyện xin Cha ban ơn cho con trong việc chăm sóc vợ và các con. Con cảm tạ Cha hôm nay Ngài cũng ban cho con có thời gian đọc và suy ngẫm Lời của Ngài được ghi chép trong II Cô-rinh-tô 1:1-11. Con xin ghi lại những điều Ngài dạy cho con hiểu qua phân đoạn này.
1 Phao-lô, theo ý muốn của Thiên Chúa, làm sứ đồ của Đức Chúa Jesus Christ, cùng người anh em cùng Cha của chúng ta là Ti-mô-thê, gửi cho Hội Thánh của Đức Chúa Trời ở tại thành Cô-rinh-tô cùng hết thảy những thánh đồ, những người ở trong khắp xứ A-chai.
Câu 1: Phao-lô mở đầu thư II Cô-rinh-tô bằng lời tự giới thiệu về chức vụ sứ đồ của ông. Ông làm chức vụ sứ đồ của Đức Chúa Jesus Christ theo ý muốn của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sứ đồ của Đức Chúa Jesus Christ là người được Ngài sai đi để thi hành nhiệm vụ rao giảng Tin Lành cho người chưa biết Chúa, thành lập Hội Thánh ở các địa phương, và giảng dạy Lời Chúa cho con dân Chúa. Vì Phao-lô từng sai Ti-mô-thê đến giải quyết các nan đề tại Hội Thánh Cô-rinh-tô (I Cô-rinh-tô 4:17; I Cô-rinh-tô 16:10), nên rất có thể Ti-mô-thê đã dự phần tích cực trong sự thảo luận với Phao-lô về nội dung trong thư II Cô-rinh-tô.
2 Nguyện ân điển và sự bình an từ Thiên Chúa, Cha của chúng ta, và từ Đức Chúa Jesus Christ ở với các anh chị em!
Câu 2: Ân điển của Thiên Chúa là mọi ơn phước thiêng liêng Thiên Chúa ban cho con dân của Ngài (Ê-phê-sô 1:3). Sự bình an từ Thiên Chúa là không lo lắng, sợ hãi, nghi ngờ trước mọi nghịch cảnh vì tin chắc rằng Thiên Chúa luôn yêu thương, quan phòng mình.
Ân điển của Đức Chúa Jesus Christ là mọi ơn Ngài ban cho chúng ta, trong đó có các ơn tiêu biểu: ơn chịu chết và chuộc tội thay, ơn ở cùng và ban thêm sức, ơn được ban cho các chức vụ trong Hội Thánh, ơn được ban cho sự sống đời đời, ơn được đồng trị cùng Ngài trong Vương Quốc Trời… Ngài cũng ban cho sự bình an của chính Ngài, là sự bình an của một người trải qua sự cám dỗ, nghèo khó, bất công, đau đớn, tủi nhục, và sự chết.
3 Tôn vinh Đức Chúa Trời, Cha của Đức Chúa Jesus Christ chúng ta; Cha của Sự Thương Xót và Thiên Chúa của Mọi Sự An Ủi;
Câu 3: Con hiểu rằng, thân vị loài người thì Đức Chúa Jesus Christ được Đức Chúa Trời sinh ra nên Đức Chúa Trời được gọi là Cha của Đức Chúa Jesus Christ. Còn trong thân vị Thiên Chúa, Đấng Christ là Thiên Chúa Ngôi Lời, nên Ngài bình đẳng và bình quyền với Đức Chúa Trời. Chữ “Cha” mà Đức Chúa Jesus Christ gọi Đức Chúa Trời còn hàm chứa lòng vâng phục, sự tôn kính cao nhất mà một người làm ra với Đức Chúa Trời.
Thưa Cha, khi càng đọc, suy ngẫm và thực hành Thánh Kinh, con càng cảm nhận được sự vĩ đại của Ngài trên nhiều phương diện, mà một trong đó là sự thương xót của Ngài. Nghĩ đến sự thương xót của Ngài, con nhớ đến Thi Thiên 139 về sự Ngài chăm sóc con đến từng chi tiết và nhớ đến I Giăng 1:9 về sự tha thứ của Ngài khi đã là con cái của Ngài mà vẫn nhiều khi con lầm lỡ, sai bước.
Thưa Cha, con cảm tạ Ngài vì trên linh trình có nhiều khi con nản lòng, chùn bước, cảm thấy quá yếu đuối, mệt mỏi thì Ngài luôn bên cạnh, an ủi, và ban thêm sức cho con. Cũng như sự bình an, sự an ủi của Ngài vượt quá mọi sự hiểu biết của con.
4 Đấng an ủi chúng tôi trong mọi sự khốn khổ của chúng tôi, để cho chúng tôi có thể an ủi những người ở trong mọi sự khốn khổ, bằng sự an ủi mà chính mình chúng tôi được an ủi bởi Đức Chúa Trời.
Câu 4: Thưa Cha, con cũng kinh nghiệm được lời này của Phao-lô trong thực tế. Một trong những cách Cha an ủi con là Ngài dùng các anh chị em đi trước, đã chịu nhiều gian khổ, và kinh nghiệm được sự an ủi của Ngài, để an ủi con khi con phải trải qua nghịch cảnh.
5 Vì như những sự đau đớn của Đấng Christ chan chứa trong chúng tôi, thì cũng vậy, sự an ủi của chúng tôi qua Đấng Christ cũng chan chứa trong chúng tôi.
Câu 5: Sự đau đớn của Đấng Christ chan chứa trong Phao-lô và Ti-mô-thê khi hai ông chịu nhiều cực khổ, bách hại hầu việc Chúa. Tương tự như sự đau đớn của mọi chi thể trong thân đều dẫn truyền tín hiệu đến não bộ, Đấng Christ là đầu Hội Thánh, nên Ngài cũng cùng chịu mọi đau đớn vì bị bách hại đức tin của con dân Chúa trong Hội Thánh. Vì thế, con dân Chúa càng chịu nhiều đau đớn vì danh Chúa thì càng được Đức Chúa Trời an ủi qua Đấng Christ.
6 Hoặc chúng tôi bị khốn khổ vì sự an ủi và sự cứu rỗi của các anh chị em; là sự tác động trong sự các anh chị em chịu đựng cùng những sự khốn khổ mà chúng tôi cũng trải nghiệm. Hoặc chúng tôi được an ủi vì sự an ủi và sự cứu rỗi của các anh chị em.
7 Sự hy vọng của chúng tôi về các anh chị em là vững vàng; biết rằng, như các anh chị em là những người dự phần những sự đau đớn thì cũng là những người dự phần sự an ủi.
Câu 6 và 7: Sứ Đồ Phao-lô và các bạn đồng hành của ông đã chịu nhiều gian khổ để giảng Tin Lành cho Hội Thánh tại Cô-rinh-tô, nhờ đó họ nhận được sự cứu rỗi và được an ủi khi thoát khỏi những đau khổ do tội lỗi gây nên. Sau khi họ tin nhận Chúa, thì tấm gương sáng của Phao-lô và các bạn của ông trong sự chịu khổ đã giúp họ được an ủi khi phải chịu cùng cảnh ngộ. Ở chiều ngược lại, Phao-lô và các bạn của ông cũng được an ủi khi thấy họ được an ủi và vững vàng trong đức tin. Hay nói cách khác, sự chịu khổ của những người đi trước là niềm an ủi lớn lao cho thế hệ sau, và Hội Thánh cứ nối bước như vậy qua gần 2,000 năm nay.
8 Hỡi các anh chị em cùng Cha! Chúng tôi không muốn các anh chị em chẳng biết về sự khổ nạn của chúng tôi, là sự đã đến với chúng tôi trong xứ A-si, mà chúng tôi đã bị ép quá mức, quá sức, đến nỗi chúng tôi cũng đã bị mất hy vọng về mạng sống.
9 Chính chúng tôi có án chết trong chúng tôi để cho chúng tôi không trông cậy nơi chúng tôi; nhưng trông cậy nơi Đức Chúa Trời, Đấng làm sống lại những kẻ chết;
10 Đấng đã giải cứu chúng tôi khỏi sự chết rất lớn và vẫn giải cứu. Trong Ngài, chúng tôi trông cậy rằng, Ngài vẫn giải cứu chúng tôi.
Từ câu 8 đến câu 10: Con hiểu rằng, câu “có án chết” là Phao-lô nói đến sự ông và các bạn của ông trong khi đi rao giảng Tin Lành luôn phải đối diện với sự bách hại mà có thể bị mất mạng bất cứ lúc nào, tương tự như Đức Chúa Jesus bị dân Do-thái lên án chết. Chính vì nhận thức được rõ ràng sự nguy hiểm là khó lường nên ông và các bạn chỉ biết trông cậy nơi sự quan phòng của Đức Chúa Trời. Câu “trông cậy nơi Đức Chúa Trời, Đấng làm sống lại những kẻ chết” cũng giúp con hiểu là Phao-lô và các bạn của ông chấp nhận hy sinh mạng sống nếu Chúa cho phép điều đó xảy đến, với lòng tin vững chắc là Đức Chúa Trời sẽ giải cứu họ khỏi sự chết.
11 Sự tương trợ của các anh chị em dành cho chúng tôi là lời cầu thay để nhờ nhiều người mà ơn giải cứu ban cho chúng tôi, qua lời tạ ơn được dâng lên thay cho chúng tôi bởi nhiều người.
Câu 11: Cách nhanh nhất và hiệu quả nhất mà con dân Chúa có thể làm ra để cứu giúp lẫn nhau đó là cầu thay cho nhau khi nghe biết anh chị em của mình rơi vào nghịch cảnh. Sau đó tùy theo tình hình con dân Chúa chia xẻ bất cứ điều gì có thể để cứu giúp anh chị em của mình. Phao-lô khẳng định ông và các bạn được ơn giải cứu là nhờ lời cầu thay của nhiều người, cũng như họ cũng dâng lời tạ ơn Chúa khi biết các ông gặp hoạn nạn vì biết rằng mọi sự Chúa cho phép xảy ra đều làm ích lợi cho Hội Thánh. Thưa Cha, với bản thân con thì những lời cầu thay và tạ ơn Chúa của Hội Thánh cho con cũng chính là một sự an ủi lớn khi con rơi vào những hoàn cảnh khó khăn.
Con cảm tạ Cha đã ban cho con những sự hiểu trên đây. Con cảm tạ Cha vì sự suy ngẫm Lời Ngài làm tươi mới con mỗi ngày. Nguyện rằng hôm nay con cũng được đầy ơn của Ngài trong việc sửa nhà cửa, làm phòng học, chuẩn bị lớp học cho các cháu ấu nhi.
II Cô-rinh-tô 1:12-18 Lý Do Phao-lô Chưa Thể Đến Cô-rinh-tô – Phần 1
Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Yêu Thương của con,
Con cảm tạ Cha vì một ngày mới nữa Ngài ban cho con. Con cảm tạ Cha hôm nay cũng ban cho con có thời gian đọc và suy ngẫm Lời của Ngài được ghi chép trong II Cô-rinh-tô 1:12-18. Con xin ghi lại những điều Ngài dạy cho con hiểu qua phân đoạn này.
12 Vì sự vinh hiển của chúng tôi ấy là chứng cớ cho tâm thức của chúng tôi. Rằng, trong sự đơn sơ và thanh sạch của Thiên Chúa, không trong sự khôn sáng của xác thịt, nhưng bởi ân điển của Thiên Chúa, mà chúng tôi hành xử trong thế gian, nhất là đối với các anh chị em.
Câu 12: Thưa Cha, con hiểu rằng Phao-lô và các bạn đồng hành của ông từ khi tin nhận Chúa đã hết lòng sống cho Chúa và bày tỏ ra được nếp sống tin kính Chúa trong khắp nơi họ rao giảng Tin Lành, trong khắp các Hội Thánh địa phương. Nếp sống ấy đơn sơ và thanh sạch, noi theo gương của Đấng Christ. Đơn sơ là rõ ràng, chân thật, không dối trá, không giả hình. Thanh sạch theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa là gét tội lỗi và luôn hết sức tránh phạm tội, không thỏa hiệp với tội, và không chấp nhận tội. Một nếp sống công chính như vậy chính là sự vinh hiển của Phao-lô và các bạn của ông, đó là chứng cớ trong lương tâm của họ.
13 Vì chúng tôi chẳng viết cho các anh chị em những sự gì khác, nhưng những điều các anh chị em hoặc đọc, hoặc nhận biết. Tôi mong rằng, các anh chị em nhận biết cho đến cuối cùng.
Câu 13: Phao-lô khẳng định những gì ông viết cho Hội Thánh Cô-rinh-tô là trong sự hướng dẫn con dân Chúa sống nếp sống đơn sơ và thanh sạch, chứ không nhằm mục đích gì khác, không viết một điều vô ích nào khác. Phao-lô mong Hội Thánh Cô-rinh-tô “nhận biết” là tiếp nhận tình yêu thương chân thật của ông và các bạn của ông đối với họ dù là trong những lời quở trách.
14 Cũng như các anh chị em đã phần nào nhận biết chúng tôi, rằng chúng tôi là sự khoe mình của các anh chị em, như các anh chị em cũng là sự khoe mình của chúng tôi, trong ngày của Đức Chúa Jesus.
Câu 14: “Cũng như các anh chị em đã phần nào nhận biết chúng tôi” có nghĩa là trong Hội Thánh Cô-rinh-tô có một số người không công nhận Phao-lô và các bạn của ông là các sứ đồ của Chúa, và không công nhận sự giảng dạy của ông và các bạn của ông. Đây cũng thực trạng trong Hội Thánh ngày nay, nhiều người kiêu ngạo tự lập làm thầy mà không công nhận sự giảng dạy của những người chăn chân thật Chúa sai đến giảng dạy Lời Chúa cho Hội Thánh.
Đối với những người nhận biết Phao-lô và các bạn của ông là sứ đồ thật của Chúa, họ vâng phục sự giảng dạy của các sứ đồ, nếp sống được đổi ra mới. Họ nhận biết sự cao trọng và sự thiêng liêng của chức vụ sứ đồ mà Đấng Christ giao phó cho Phao-lô và các bạn của ông. Vì thế đối với họ Phao-lô và các bạn của ông là sự khoe mình của họ. Còn đối với Phao-lô và các bạn của ông thì chính nếp sống được đổi ra mới của con dân Chúa Cô-rinh-tô là chứng cớ cho sự khoe mình của họ.
15 Bởi lòng tin cậy đó, trước đây, tôi đã muốn đến với các anh chị em để cho các anh chị em được ơn lần thứ nhì;
Câu 15: Thưa Cha, con rất thích câu “được ơn lần thứ nhì”. Có thể hình dung sự được ơn lần thứ nhì này là khi Phao-lô trở lại Cô-rinh-tô lần thứ nhì, trong những buổi thông công nhóm hiệp với Hội Thánh, Phao-lô chia sẻ lại những câu chuyện trong hành trình ông đi rao giảng Tin Lành từ sau khi rời Cô-rinh-tô. Ông kể lại những những sự Chúa ban ơn, thêm sức, giải cứu ông, và những phép lạ Chúa đã làm qua ông. Nhưng có lẽ điều đáng mong đợi nhất là được nghe Phao-lô chia sẻ những lẽ thật sâu nhiệm từ Lời Chúa mà ông được Chúa dạy cho biết thêm. Thưa Cha, bản thân con mỗi khi nghe người chăn, các anh chị em chia sẻ về một lẽ thật mà mình chưa biết trước đó, thì tâm trí được mở rộng ra, lòng tràn ngập niềm vui!
16 trải qua nơi của các anh chị em, vào trong xứ Ma-xê-đoan; từ Ma-xê-đoan trở lại với các anh chị em; rồi bởi nơi của các anh chị em được đưa đến xứ Giu-đê.
17 Tôi quyết định như vậy, có phải tôi hành xử thiếu thận trọng? Hoặc điều mà tôi quyết định tôi quyết định theo xác thịt, khiến cho nơi tôi có thể là sự phải phải và sự không không? [Khi thì cho là phải, khi thì cho là không.]
18 Nhưng Đức Chúa Trời là thành tín, lời của chúng tôi với các anh chị em chẳng phải là vừa phải, vừa không.
Từ câu 16 đến 18: Trong I Cô-rinh-tô 16:5, Phao-lô cho con dân Chúa tại Cô-rinh-tô biết, ông dự định thực hiện một chuyến đi qua xứ Ma-xê-đoan rồi đến Cô-rinh-tô. Câu 16 thì Phao-lô cho biết ông muốn đến Cô-rinh-tô trước, có lẽ là đi bằng đường biển, sau đó mới đi lên hướng bắc đến Ma-xê-đoan, rồi từ Ma-xê-đoan quay trở lại Cô-rinh-tô. Như vậy, Phao-lô đã hai lần thay đổi ý định. Có thể vì điều này mà khiến cho có người trong Hội Thánh Cô-rinh-tô cho rằng ông hành xử thiếu thận trọng, giống một người ba phải. Phao-lô viết câu 18 với hàm ý, Đức Chúa Trời là thành tín làm chứng ông rằng ông đã hành xử đơn sơ và thanh sạch, không theo xác thịt, nhưng bởi ân điển của Thiên Chúa. Ân điển của Thiên Chúa thể hiện ở chỗ Phao-lô muốn miễn giảm sự quở trách con dân Chúa tại Cô-rinh-tô về những sự sai trái của họ (II Cô-rinh-tô 1:23).
Con cảm tạ Cha đã ban cho con những sự hiểu trên đây. Qua phân đoạn trên con hiểu rằng trong thực tế cuộc sống, trong mỗi quyết định con cần cẩn thận cầu hỏi Ngài. Nhưng có đôi khi Cha cho phép một sự việc xảy đến làm thay đổi quyết định trước đó của con, là Ngài đang chuẩn bị cho con điều tốt hơn. Con cảm tạ Cha.
II Cô-rinh-tô 1:19-2:4 Lý Do Phao-lô Chưa Thể Đến Cô-rinh-tô – Phần 2
Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Yêu Thương của con,
Con cảm tạ Cha vì một ngày mới nữa Ngài ban cho con. Con cảm tạ Cha đã ban ơn, thêm sức cho con chăm sóc vợ và các con. Con cảm tạ Cha hôm nay Ngài cũng ban cho con có thời gian đọc và suy ngẫm Lời của Ngài được ghi chép trong II Cô-rinh-tô 1:19-2:4. Con xin ghi lại những điều Ngài dạy cho con hiểu qua phân đoạn này.
II Cô-rinh-tô 1:19-24
19 Con của Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Jesus Christ, đã được rao giảng giữa các anh chị em bởi chúng tôi, bởi tôi, Si-la, và Ti-mô-thê, chẳng phải là vừa phải, vừa không. Nhưng trong Ngài là phải.
Câu 19: Thưa Cha, con hiểu rằng, Sứ Đồ Phao-lô khẳng định Đức Chúa Jesus Christ là Lẽ Thật (Giăng 14:6), trong miệng Ngài không có sự gian trá (I Phi-e-rơ 2:22) nên ông và các bạn của ông phải là những người rao giảng chân thật. Câu “trong Ngài là phải” nghĩa là mọi sự ra từ Đức Chúa Jesus Christ đều là chân thật, những tôi tớ của Ngài là người chân thật.
20 Vì mọi lời hứa của Thiên Chúa ở trong Ngài là sự phải. Và trong Ngài là sự a-men cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời bởi chúng tôi.
Câu 20: “Mọi lời hứa của Thiên Chúa ở trong Ngài là sự phải” nghĩa là mọi lời hứa của Ba Ngôi Thiên Chúa đều là chân thật, phải xảy đến đúng như lời Ngài hứa, và đều được làm thành qua Đức Chúa Jesus Christ. Câu “trong Ngài là sự a-men” nghĩa là mọi hành động của Đấng Christ đều bày tỏ được sự chân thật của Đức Chúa Trời. Hay nói cách khác, Đấng Christ chiếu ra tình yêu, sự thánh khiết, và sự công chính của Đức Chúa Trời qua nếp sống và qua mọi lời rao giảng của Ngài. Sau khi Đấng Christ thăng thiên thì các sứ đồ của Ngài tiếp tục noi theo gương Ngài, chịu khổ rao giảng Tin Lành, sống vâng phục Ngài. Nếp sống của các sứ đồ là sự phản chiếu vinh quang của Đức Chúa Trời trên Đấng Christ ra cho nhiều người nhìn thấy.
21 Đấng làm cho bền vững chúng tôi với các anh chị em trong Đấng Christ, đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa;
22 Đấng cũng đóng ấn chúng ta và ban sự bảo chứng của Đấng Thần Linh trong lòng của chúng ta.
Câu 21 và 22: Con hiểu rằng, Ba Ngôi Thiên Chúa cùng đồng công trong công tác gầy dựng Hội Thánh, trong sự làm cho các thành viên trong Hội Thánh được gắn kết một cách chắc chắn, liền mạch với Đấng Christ, như các chi thể trong cùng một thân thể gắn kết với nhau. “Đã xức dầu” nghĩa là Thiên Chúa ban cho các thánh đồ địa vị làm tiên tri, thầy tế lễ, và vua, đồng thời ban cho họ đầy đủ năng lực để thi hành các chức vụ.
Đức Chúa Trời đóng ấn trên các thánh đồ nghĩa là xác nhận họ thuộc về Ngài, ở trong sự quan phòng của Ngài. Sự hiện diện và thông công của Đức Thánh Linh trong lòng mỗi người giúp họ nhận biết mình đã thuộc về Chúa và ở trong sự cứu rỗi của Ngài.
23 Tôi kêu cầu Đức Chúa Trời, xin chứng tích trên linh hồn của tôi rằng, vì khoan hồng cho các anh chị em mà tôi chưa đến Cô-rinh-tô.
Câu 23: “Xin chứng tích trên linh hồn” là xin một dấu hiệu làm chứng trên mạng sống. Phao-lô có ý nói, ông kêu cầu Đức Chúa Trời làm chứng cho ông về lý do ông thay đổi dự định đến thăm Hội Thánh Cô-rinh-tô sớm hơn. Lý do là ông muốn dành cho họ có thời gian kịp ăn năn, sửa đổi, và ông muốn miễn giảm sự quở trách, kỷ luật con dân Chúa tại Cô-rinh-tô về những sai trái của họ.
24 Không phải vì chúng tôi cai trị đức tin của các anh chị em, nhưng chúng tôi là những người giúp cho sự vui mừng của các anh chị em, vì bởi đức tin các anh chị em đứng vững.
Câu 24: Phao-lô giải thích rằng, mặc dù Phao-lô và các bạn của ông có thẩm quyền cai trị Hội Thánh do Đức Chúa Trời ban cho, nhưng không phải họ dùng thẩm quyền ấy để khoan hồng cho những sự sai trái của họ. Mà Phao-lô chậm đến là để họ có thời gian kịp ăn năn và sửa lỗi, để khi ông và các bạn ông đến thì tất cả sẽ hội ngộ trong sự vui mừng, vì Hội Thánh Cô-rinh-tô đã đánh trận tốt lành, đã đứng vững trong đức tin.
II Cô-rinh-tô 2:1-4
1 Vậy, chính tôi đã tự quyết định về sự tôi sẽ không trở lại với các anh chị em trong sự đau buồn.
2 Vì nếu tôi làm cho các anh chị em buồn rầu thì ai là người làm cho tôi vui, nếu không phải người đã bị buồn rầu vì tôi?
Câu 1 và 2: Mặc dù Phao-lô nói rằng chính ông tự quyết định thay đổi dự định trước đó, nhưng con hiểu rằng quyết định này của ông có sự soi dẫn của Đức Thánh Linh. Lý do ông chậm đến là để Hội Thánh Cô-rinh-tô có thời gian ăn năn và sửa đổi. Như vậy, khi ông và các bạn của ông đến thăm thì mọi người đều vui mừng.
3 Tôi đã viết cho các anh chị em như thế, để khi tôi đến, tôi sẽ không có sự buồn rầu bởi những người lẽ ra khiến tôi vui mừng. Tôi tin cậy nơi hết thảy các anh chị em rằng, sự vui mừng của tôi là sự vui mừng của hết thảy các anh chị em.
Câu 3: Phao-lô đúc kết lại lý do ông không muốn đến Cô-rinh-tô sớm như dự định là để ông và Hội Thánh gặp nhau trong sự vui mừng. Phao-lô vui mừng vì con dân Chúa tại Cô-rinh-tô đã đánh trận tốt lành, đã chiến thắng những mưu kế của ma quỷ gây chia rẽ trong Hội Thánh. Hội Thánh tại Cô-rinh-tô cũng được vui mừng khi được Chúa dùng Phao-lô để thánh hóa họ.
4 Vì từ cơn khốn khổ lớn và sự quặn thắt của tấm lòng mà tôi đã viết cho các anh chị em với nhiều nước mắt. Chẳng phải để cho các anh chị em bị đau buồn nhưng để các anh chị em biết tình yêu mà tôi có dư dật đối với các anh chị em.
Câu 4: “Cơn khốn khổ lớn và sự quặn thắt”, Phao-lô nói đến ở đây là sự đau buồn trong lòng của ông về thực trạng phân rẽ trong Hội Thánh Cô-rinh-tô và sự Hội Thánh bị các giáo sư giả và tiên tri giả lũng đoạn. Ông khẳng định mục đích ông viết thư II Cô-rinh-tô không phải để quở trách nặng nề khiến họ bị đau buồn. Nhưng ông viết ra trong tình yêu dư dật của ông dành cho Hội Thánh, muốn Hội Thánh sớm ăn năn và trở lại nếp sống tin kính Chúa.
Con cảm tạ Cha đã ban cho con những sự hiểu trên đây. Qua phân đoạn này con cũng học biết được tình yêu của Chúa thể hiện trong Hội Thánh qua những người Chúa giao phó cho chức vụ chăn dắt bầy chiên của Chúa. Chính vì thế mà Chúa chỉ cần ở nơi những người chăn dắt một tấm lòng tha thiết yêu Chúa. Chính tấm lòng tha thiết yêu Chúa và biết ơn Chúa sẽ giúp họ can đảm và mạnh mẽ trong chức vụ.
Trong ân điển của Đức Chúa Jesus Christ.
Nguyễn Ngọc Tú