Sáng Thế Ký Chương 23
Sa-ra Qua Đời – Áp-ra-ham Mua Cánh Đồng Mặc-bê-la và Chôn Sa-ra tại Đó
1 Sa-ra được một trăm hai mươi bảy tuổi. Ấy là các năm của đời Sa-ra.
Sa-ra kém Áp-ra-ham 10 tuổi. Sa-ra qua đời, lúc này, Áp-ra-ham được một trăm ba mươi bảy tuổi. I-sác ba mươi bảy tuổi.
2 Sa-ra qua đời tại Ki-ri-át-a-ra-ba, tức là Hếp-rôn, thuộc về xứ Ca-na-an. Áp-ra-ham đến chịu tang cho Sa-ra và than khóc người.
Ki-át-a-ra-ba, tức Hếp-rôn, thuộc đồng bằng Mam-rê, thuộc xứ Ca-na-an, là địa danh nơi Áp-ra-ham và Sa-ra kiều ngụ khi Chúa kêu gọi rời xa U-rơ, thuộc xứ Canh-đê, nơi họ hàng thân tộc. (Sáng Thế Ký 13:18; 11:28; 35:27). Con tra trên bản đồ thời Cựu Ước, thì Hếp-rôn nằm phía Tây của Biển Mặn, đối ngang phía Đông bên kia là vùng thuộc A-môn và Mô-áp, phía Nam là Ê-đôm.
3 Kế đó, Áp-ra-ham đứng dậy trước người chết mình và nói với dân họ Hếch rằng:
4 Ta là một khách kiều ngụ trong vòng các ngươi; xin hãy cho một nơi mộ địa trong xứ các ngươi, để chôn người chết của ta.
Ngụ là ở, định cư, cư trú. Kiều là ở nhờ. Kiều ngụ là nơi ở nhờ, chốn cư trú nhờ. Khách là người khác trong quan hệ chủ nhà với nơi đến. Khách kiều ngụ là người nơi khác đến ở nhờ. Áp-ra-ham tự nhận mình là một khách trong vòng những người dân xứ Ca-na-an nơi ông đến kiều ngụ.
Địa là đất. Mộ là mả, nơi chôn xác chết. Mộ địa là nơi chôn xác người đã chết. Áp-ra-ham đã xin người dân nơi ông kiều ngụ cho ông một nơi đất để chôn Sa-ra. Áp-ra-ham đã kiêm nhường, hạ mình, làm theo các phép tắc của xứ nơi ông đến, nếu như đó không có gì sai nghịch Chúa.
Người chết có nhu cầu được chôn, cất; nhưng Chúa không cho phép thờ lạy xác chết, thờ lạy linh hồn người đã chết. Mọi hình thức thờ cúng, thắp hương người chết hay gọi hồn, cầu vong linh hồn người đã chết là trái nghịch Chúa.
5 Dân họ Hếch đáp rằng:
Theo Sáng Thế Ký 27:46, cho con hiểu dân họ Hếch là dân có nếp sống không được lành, có đời sống không kính sợ Chúa. Có lẽ chính vì vậy mà Áp-ra-ham không tiếp nhận phần đất họ ngỏ ý cho Sa-sa chôn. Những câu tiếp theo trong đoạn Thánh Kinh này, cho con biết Áp-ra-ham đã xin phép được mua lại, khi Chúa cho ông có thể đứng ra mua. Con tin đó là việc đẹp ý Chúa. Qua đây con học được bài học là: Con cần hạn chế tối đa, không nên làm phiền, dựa vào người ngoại khi mình có thể làm được. Không chỉ người ngoại, với anh chị em trong Chúa, con cần học nếp sống tự chủ, tự lập nhiều hơn trong khả năng, được chừng nào thì tốt chừng đó, hơn là bị động nhờ người này người kia. Con nên giao tiếp, trao đổi có chừng mực với người ngoại, chủ yếu trong mối quan hệ cộng tác như cùng làm để hoàn tất công việc chung, trong công việc kiếm sống, bổn phận trách nhiệm, công việc cứu giúp; con hoàn toàn không thông công, tức con không đồng công, không dính dáng trong sự dàng buộc, cũng không để lòng nương dựa nơi loài người, sức người, không giao kết cùng người ngoại, cũng như không tự đặt mình trong mối quan hệ, những việc không cần thiết.
Sự ban ơn luôn đến từ Chúa mới là sự ban ơn thật. Con cần cẩn trọng với những mưu chước của ma quỷ. Sa-tan có thể dùng người ngoại ban cho con này nọ để giăng cạm bẫy, lừa gạt. Mục đích của Sa-tan là chúng muốn linh hồn con xa Chúa. Chúng cho tay này, lấy lại tay kia, làm khổ con. Con cầu xin Chúa ban cho con sự khôn ngoan để con biết ý Chúa và con hành động thông sáng.
Có thời điểm trong đời sống con, Chúa dùng người ngoại giúp đỡ con, con biết ơn Chúa và con biết ơn những người đã giúp con. Con đón nhận với lòng biết ơn Chúa trước nhất, con hiểu rằng nếu chẳng bởi sự ban cho của Chúa, chẳng bởi Chúa cho phép, thì chẳng sự gì có thể xảy ra. Chỉ khi con chân thành biết ơn và yêu Chúa, lòng con mới biết ơn và yêu được con người. Con không biết ơn và yêu được Chúa thì con cũng không biết ơn và yêu được ai theo đúng nghĩa, đúng tiêu chuẩn của tình yêu. Bản chất con người tội lỗi xấu xa của con người con là như vậy. Cũng vậy, mọi thứ ơn nghĩa, yêu thương trong cuộc đời này, nếu chẳng bởi Chúa, ra từ Chúa, đều là giả dối. Dẫu cho thế gian, với những con người, có những người hết lòng đem mình yêu thương, cứu giúp, cảm thông, chia sẻ; nhiều khi họ cũng hành động, cũng yêu thương xuất phát từ tấm lòng. Nhưng một lẽ thật phũ phàng, cho dù một người có tâm ý, làm ra những việc với tấm lòng tưởng như tốt đến mấy, mà người đó không kính sợ, vâng phục, tin yêu Chúa; không làm trong sự biết ơn, vâng phục Chúa, thì đều trở nên vô ích, không chân thật, không trong lẽ thật của tình yêu Chúa.
Chúa ơi, trước đây, ngày con mới biết Chúa, khi con mới biết đến lẽ thật này, khi con chưa hiểu, con hay thắc mắc, tự cho rằng như vậy có bất công và khắt khe quá không. Khi con nhìn nơi này chỗ kia có những việc làm, gương tốt, thậm trí có những tấm lòng, những hành động, việc làm khiến nhiều người rung động, cảm phục. Nhưng đó chỉ dừng ở việc làm người đời ghi nhận. Phần lương tâm còn sót lại, sau khi loài người phạm tội. Tội lỗi khiến tâm thức loài người bị băng hoại, không còn tốt lành như thuở ban đầu Chúa tạo dựng. Những gì tốt đẹp nhất trong loài người tội lỗi, chỉ là chút ánh sáng yếu ớt, chớm le lói, còn sót lại trong tâm thức, phản chiếu phần nào tình yêu, hình ảnh của Đức Chúa Trời. Thứ ánh sáng không đủ sáng, thứ tình yêu không đủ yêu, thứ năng lực không đủ sức để làm ra một sự tốt lành thật. Lẽ thật không đổi: Tình yêu thật chỉ có trong Chúa. Chúa là tình yêu thật. Ánh sáng thật. Sự sống thật.
Loài người chỉ có thể phục hồi, nhận lại năng lực, tình yêu, sự sáng và sự sống thật từ Thiên Chúa, khi loài người biết hạ mình ăn năn tội và tin nhận Chúa, yêu kính và thờ phượng Ngài, hết lòng sống và chết cho Ngài.
Con cảm tạ Chúa, qua đây, Chúa cũng nhắc nhở con trong nếp sống biết ơn Chúa, yêu thương người lân cận và yêu thương anh chị em cùng Cha bằng tình yêu Thiên Chúa.
6 Lạy chúa, xin hãy nghe chúng tôi: giữa chúng tôi, chúa tức là một tôn trưởng của Thiên Chúa; hãy chôn người chết của chúa nơi mộ địa nào tốt hơn hết của chúng tôi. Trong bọn chúng tôi chẳng có ai tiếc mộ địa mình, để chôn người chết của chúa đâu.
Trước lời lẽ đáp lại của dân họ Hếch, Áp-ra-ham phải làm như thế nào. Ông đã không vội vàng nghe theo họ. Trước lời yêu cầu của người ngoại, ông đã khôn ngoan nghe theo tiếng phán dạy của Chúa trong lòng mình.
7 Áp-ra-ham đứng dậy, sấp mình xuống trước mặt các dân của xứ, tức dân họ Hếch,
Hành động sấp mình xuống trước mặt các dân của xứ thể hiện sự tôn trọng, có thể là nghi thức giao tiếp của người Trung Đông mà Áp-ra-ham đã quen từ nhỏ; thói quen sấp mình thờ lạy Chúa.
8 mà nói rằng: Nếu các ngươi bằng lòng cho chôn người chết ta, thì hãy nghe lời, và cầu xin Ép-rôn, con của Xô-ha giùm ta,
Ép-rôn là con của Xô-ha. Con tra trong Thánh Kinh thì có hai tên Xô-ha. Một Xô-ha là con trai của Si-mê-ôn (Sáng Thế Ký 46:10). Một Xô-ha là con trai của Hê-lê-a (I Sử Ký 4:7).
Si-mê-ôn là con của Gia-cốp với Lê-a (Sáng Thế Ký 35:23). Lê-a là con gái lớn của La-ban (Sáng Thế Ký 29:16). La-ban là anh trai của Rê-bê-ca, con trai của Bê-tu-ên; Rê-bê-ca là vợ của I-sác (Sáng Thế Ký 25:20). Bê-tu-ên là con trai của Minh ca và Na-cô (Sáng Thế Ký 22:23). Na-cô là em trai của Áp-ra-ham, do Tha-rê sinh (Sáng Thế Ký 11:26). Minh-ca là con của Ha-ran (Sáng Thế Ký 11:29). Ha-ran là em trai Áp-ra-ham và Na-cô (Sáng Thế Ký 11:26).
Ngược về các đời, sẽ là: Na-cô (là em trai Áp-ra-ham) sinh Bê-tu-ên. Bê-tu-ên sinh La-ban và Rê-bê-ca. La-ban sinh Lê-a. Lê-a sinh Si-mê-ôn (với Gia-cốp). Si-mê-ôn sinh Xô-ha. Như vậy Xô-ha trong Sáng Thế Ký 46:10 là đời thứ 5 kể từ đời Na-cô.
Theo Sáng Thế Ký chương 11, thì Áp-ra-ham là thế hệ thứ 9 kể từ đời Sem. Theo Sáng Thế Ký chương 5, thì Sem là đời thứ 11, kể từ đời đầu tiên là A-dam.
Hê-lê-a là vợ của A-su-rơ (I Sử Ký 4:5). A-su-rơ là con trai của Sem (Sáng Thế Ký 10:22; I Sử Ký 1:17). Theo I Sử Ký 2:24 thì lại có một tên A-su-rơ nữa là con của A-bi-gia, A-bi-gia là vợ của Hết-rôn. Hết-rôn là con của Ru-bên (Sáng Thế Ký 46:9).
Do đó, có lẽ Xô-ha trong Sáng Thế Ký 23:8 trên không phải là con trai của Si-mê-ôn trong Sáng Thế Ký 46:10, cũng không phải trai của Hê-lê-a trong I Sử Ký 4:7.
9 để người nhượng cho ta hang đá Mặc-bê-la, ở về tận đầu cánh đồng của người, để lại cho đúng giá, để cho ta được trong vòng các ngươi một nơi mộ địa.
Hang đá Mặc-bê-la thuộc cánh đồng Ép-rôn, ngang Mam-rê (Sáng Thế Ký 25:9). Đồng bằng Mam-rê là nơi mà trước đây Áp-ra-ham đến kiều ngụ và lập bàn thờ cho Đấng Tự Hữu Hằng Hữu (Sáng Thế Ký 18:13).
10 Ép-rôn, người Hê-tít, đang ngồi trong nhóm dân họ Hếch, đáp lại cùng Áp-ra-ham trước mặt dân họ Hếch vẫn nghe và trước mặt mọi người đến nơi cửa thành, mà rằng:
11 Không, thưa chúa, hãy nghe lời tôi: Hiện trước mặt dân tôi, tôi xin dâng cho chúa cánh đồng, và cũng dâng luôn cái hang đá ở trong đó nữa; hãy chôn người chết của chúa đi.
12 Áp-ra-ham sấp mình xuống trước mặt dân của xứ,
13 và nói lại cùng Ép-rôn hiện trước mặt dân của xứ đang nghe, mà rằng: Xin hãy nghe, ta trả giá tiền cánh đồng, hãy nhận lấy đi, thì ta mới chôn người chết của ta,
14 Ép-rôn đáp rằng:
15 Thưa chúa, hãy nghe lời tôi: Một miếng đất giá đáng bốn trăm siếc-lơ bạc, mà giữa tôi với chúa, thì có giá gì đâu? Xin hãy chôn người chết của chúa đi.
Ép-rôn đã định giá miếng đất là bốn trăm siếc-lơ bạc. Theo chú thích của người chăn về siếc-lơ bạc trong Xuất Ê-díp-tô-ký 30:13, thì: “Một đồng tiền siếc-lơ bạc thời Cựu Ước nặng 132 grains, tương đương 8,55346 grams. Một ghê-ra = 1/20 siếc-lơ = 6,6 grains, tương đương 0,427673 gram. Đồng tiền siếc-lơ bạc dùng trong Nơi Thánh phải là đồng tiền mới hoặc tương đối mới, không bị sứt mẻ, hao mòn.”
Nếu theo giá bạc hiện nay, 1 lượng bạc hay còn gọi là 1 cây bạc, bằng 10 chỉ bạc, là 37,5 gram, có giá khoảng hơn sáu trăm ngàn đồng tiền Việt. Bốn trăm siếc-lơ bạc tương đương 91,237 cây bạc. Nếu quy tiền Việt thời nay, con nhân ra chừng dăm sáu chục triệu.
Con chưa hiểu câu nói của Ép-rôn: “mà giữa tôi với chúa, thì có giá gì đâu?” Xin Chúa giúp con hiểu. Sau khi suy ngẫm, con hiểu là: Cho dù miếng đất có đáng giá như nào, Áp-ra-ham đã bỏ tiền ra mua, thì việc Ép-rôn đứng ra xác chứng sản nghiệp thuộc về Áp-ra-ham, nhượng lại miếng đất để Áp-ra-ham dùng làm mộ địa; giữa Ép-rôn và Áp-ra-ham, trong tư cách mua bán là sòng phẳng, qua giá trị mua bán miếng đất. Nhưng xét về quan hệ thoả thuận, bằng lòng trao nhận quyền sử dụng đất thì chẳng có giá gì, tức không thể định giá. Con hiểu đó là bởi sự ban cho trong ơn của Chúa. Con cảm tạ Chúa giúp con hiểu được chừng đó. Xin Chúa giúp con hiểu thêm, nếu con hiểu chưa hết hoặc nhỡ có chỗ nào con hiểu chưa đúng. Con tạ ơn Chúa!
16 Áp-ra-ham nghe theo lời Ép-rôn, trước mặt dân họ Hếch cân bốn trăm siếc-lơ bạc cho người, là bạc thông dụng nơi các tay buôn bán.
17 Vậy, cánh đồng của Ép-rôn, tại Mặc-bê-la, nằm ngang Mam-rê, nghĩa là cánh đồng và hang đá, các cây cối ở trong và chung quanh theo giới hạn đồng,
18 đều trước mặt có các dân họ Hếch cùng mọi người đến cửa thành, nhận chắc cho Áp-ra-ham làm sản nghiệp.
Nhận chắc là xác nhận, xác chứng. Tức cánh đồng của Ép-rôn, tại Mặc-bê-la, cánh đồng và hang đá, các cây cối ở trong và chung quanh theo giới hạn đồng, đều đã được Ép-rôn xác chứng là sản nghiệp của Áp-ra-ham, được Áp-ra-ham mua lại, dùng làm nơi mộ địa.
19 Sau các việc đó, Áp-ra-ham chôn Sa-ra, vợ mình, trong hang đá của đồng Mặc-bê-la, nằm ngang Mam-rê tại Hếp-rôn, thuộc về xứ Ca-na-an.
20 Đồng và hang đá đều có các người họ Hếch nhận chắc, để lại cho Áp-ra-ham dùng làm mộ địa.
Hang đá Mặc-bê-la, ngang Mam-rê, thuộc Hếp-rôn, xứ Ca-na-an, cũng là nơi chốn cất I-sác, Gia-cốp. Rê-bê-ca, vợ I-sác; Lê-a cũng được chôn tại đây (Sáng Thế Ký 49:31).
Gia-cốp qua đời tại xứ Ê-díp tô, theo lời của cha trước khi qua đời (Sáng Thế Ký 46:29, 30; 49:29-32), Giô-sép đã nhớ lời cha dặn trước khi chết, ông đã làm y theo nguyện ước của cha mình, xin vua Pha-ra-ôn, xứ Ê-díp-tô, cho phép ông được đưa xác cha mình là Gia-cốp, về lại xứ Ca-na-an chôn cất cùng tổ phụ, nơi hang đá tại đồng Mặc-bê-la, ngang Mam-rê (Sáng Thế Ký 50:4-6). Giô-sép đã làm y theo như vậy (Sáng Thế Ký 50:7-14).
Riêng Giô-sép qua đời thì lại được chôn tại xứ Ê-díp-tô (Sáng Thế Ký 50:26). Nhưng trước khi ông chết, ông cũng có tâm nguyện sau này được dời hài cốt mình khỏi xứ Ê-díp-tô và ông đã bảo các người anh mình trước khi ông mất (Sáng Thế Ký 50:25). Còn Ra-chên qua đời được chôn tại Bết-lê-hem (Sáng Thế Ký 48:7; 35:19).
Con cảm tạ Chúa đã cho con học xong Sáng Thế Ký Chương 23. Tới đoạn Sa-ra qua đời, rồi ở các chương tiếp theo, lần lượt đến Áp-ra-ham, I-sác, Gia-cốp, Giô-sép … Được sinh ra và qua đời. Đời người trên đất thật ngắn ngủi. Khi con rà lại những câu Thánh Kinh liên quan đến những lời tạ từ trước khi qua đời của Áp-ra-ham và các con ông, những điều đã xảy đến trong mỗi cuộc đời dòng dõi tổ phụ Áp-ra-ham, những câu chuyện thật cảm động. Nếu chẳng bởi tình yêu Thiên Chúa đặt để, tác động nơi lòng người, thì loài người chúng con sẽ không bao giờ có được những tình cảm như vậy.
Trong Thánh Kinh có rất nhiều câu chuyện về tình yêu cảm động. Cảm động nhiều hơn trong con là câu chuyện tình yêu nam nữ trong Nhã Ca và những câu chuyện tình yêu cha con, về cuộc đời Áp-ra-ham, I-sác, Gia-cốp, Giô-sép trong Sáng Thế Ký. Tình yêu thương chân thật Chúa đặt để trong lòng người mà con nhìn được, cảm nhận được, phản ảnh rõ ràng hình ảnh Thiên Chúa, giúp cho con có thể nhìn được rõ nét hơn Đức Chúa Trời, Đấng yêu thương con bằng tình yêu chân thật.
Suy ngẫm về nơi chôn cất của Sa-ra, Áp-ra-ham, I-sắc, Gia-cốp. Con nhớ đến lời nhạc và dòng cảm xúc trong một bài hát còn trong ký ức của người chăn chia sẻ cách đây vài tháng. Giây phút những con người đặt chân nơi xứ người, xa quê hương, xa bà con thân tộc; giữa biển trời, những cánh chim bay tìm tự do; bên kia bờ đại dương, có thể họ sẽ không có cơ hội trở lại; có thể bỏ lại nơi xứ người, lòng vẫn luôn nhớ về quê hương. Quê thương, thân tộc trên đất. Khát vọng tự do, khát vọng sống giới hạn trong cuộc đời này. Mấy mươi năm. Mấy ngàn dặm. Không gian và thời gian giới hạn. Sự sống giới hạn.
Tự do thật. Sự sống thật. Quê hương đời đời thật nơi Chúa. Nơi Áp-ra-ham ra đi, xa bà con thân tộc, xa xứ. Đến sống và ông đã chết, được chôn nơi xứ người, cùng vợ, các con. Nơi chính ông, các con ông đã chọn. Ông đã đến được nơi Chúa muốn ông đến, sống nơi Chúa muốn và ngay cả nơi chôn cất ông, con tin đó cũng là theo ý Chúa. Trong Chúa, sự chết không còn ý nghĩa, vượt trên sự chết, vào trong sự sống đời đời, vĩnh cửu.
Chúa muốn cuộc đời theo Chúa của con cũng cần buông bỏ, chết đi chính mình, từ bỏ tội, từ bỏ chính mình, chết đi con người cũ, sống con người mới, mỗi ngày chịu khổ vác thập tự mình theo Chúa. Chúa muốn con chết cho Chúa và sống cho Chúa. Nếu con không chết cho Chúa thì con cũng không thể sống cho Chúa. Chết chính bản ngã xấu xa trong con người con, thì con mới có thể sống cho Chúa. Chúa ơi, con xin phó thác đời sống con lên Chúa. Xin Chúa thương giúp con kết quả. A-men!
Con cảm tạ ơn Chúa!
Trong ân điển Đức Chúa Jesus Christ.
Nguyễn Thị Lan
19/12/2022