Sáng Thế Ký Chương 8
Hết Cơn Nước Lụt
1 Thiên Chúa nhớ đến Nô-ê cùng mọi vật sống và mọi súc vật ở trong tàu với ông. Thiên Chúa khiến một trận gió thổi ngang qua trên đất, thì nước dừng lại.
Sau 40 ngày mưa lụt, người và mọi vật trên đất bên ngoài tàu đều đã bị huỷ diệt hết, Thiên Chúa nhớ đến Nô-ê cùng mọi vật sống và mọi súc vật ở trong tàu với ông. “Mọi vật sống” cho con nhớ đến sự sống nơi Chúa. Con tàu Nô-ê còn gọi là con tàu đức tin, con tàu Thiên Chúa cứu sự sống. Chỉ một cơn gió thổi ngang qua trên đất thì mưa đang lớn dừng lại, dứt hẳn. Đây là một phép lạ Chúa làm ra.
2 Các nguồn của vực lớn và các cửa sổ trên trời ngừng lại; mưa từ trời bị cầm giữ lại.
Cùng lúc mưa dứt thì các nguồn của vực lớn và các cửa sổ trên trời cũng ngừng lại. Con hiểu các cửa sổ trên trời là các đám mây mưa lớn, không biết có đúng không. Nếu con hiểu chưa đúng, con xin Chúa ban y tỏ cho con. Con cảm tạ ơn Chúa.
3 Nước từ từ rút khỏi mặt đất. Cuối của một trăm năm mươi ngày thì nước đã hạ xuống.
Con hiểu sau khi mưa dứt vào ngày mưa thứ bốn mươi, nước vẫn còn dâng trên mặt đất nhưng không dâng lên cao tiếp nữa, mà bắt đầu hạ xuống.
4 Đến tháng thứ bảy, ngày mười bảy, chiếc tàu tấp trên rặng Núi A-ra-rát.
Từ ngày mưa dứt cho đến ngày nước dần hạ xuống, tới khi chiếc tàu của Nô-ê tấp trên rặng núi A-ra-rát là 110 ngày. Khối núi Ararat có đường kính khoảng 40 km, cao khoảng trên 5 ngàn ki-lô-mét so với mực nước biển, nằm giữa nước Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.
Khảo cổ học ngày nay, có nhóm nghiên cứu đã công bố phát hiện ra chứng cứ về con tàu Nô-ê tại trên núi A-ra-rát, có kích thước và tuổi hoá thạch trùng khớp với con tàu của Nô-ê trong Thánh Kinh. Những gì Thánh Kinh bày tỏ hoàn toàn là sự thật.
5 Nước cứ từ từ hạ xuống cho đến tháng thứ mười. Ngày một tháng đó, các đỉnh núi mới lộ ra.
Từ ngày con tàu Nô-ê tấp trên rặng núi A-ra-rát cho đến ngày một tháng thứ mười là 74 ngày. Mực nước hạ dần, nhìn rõ các đỉnh núi.
6 Được bốn mươi ngày, Nô-ê mở cửa sổ tàu mà ông đã làm,
Bốn mươi ngày ở đây là tính từ ngày các đỉnh núi lộ ra, tiếp câu 5. Vậy sẽ là tháng thứ mười một, ngày mười một cùng năm sáu trăm đời Nô-ê. Ngày này Nô-ê đã mở cửa sổ tàu.
7 thả một con quạ ra. Nó bay đi, bay lại cho đến khi nước rút khô khỏi đất.
Lê-vi-ký 11:15 cho con biết quạ là loài vật không thanh sạch nên chỉ có 1 cặp trống mái. Nô-ê thả một con quạ ra. Quạ bay đi, bay lại không trở lại tàu cho đến khi nước rút khô khỏi đất. Không biết quạ bay xa đến đâu và trong bao lâu. Có lẽ quạ cũng cần dừng nghỉ đâu đó ăn, uống. Vì hậu quả tội lỗi, loài người đã không quản trị được muôn loài.
Cùng hai loài, trong khi bồ câu chịu thuần phục chủ, quạ thì không thuần phục. Quạ tự chọn lang thang bay lượn tự do bên ngoài tàu. Thức ăn cho quạ lúc đó là những xác chết sinh vật, vì các loài thực vật sau nhiều ngày bị ngập chưa chắc đã có quả. Bồ câu thuần phục trở về tàu với Nô-ê, thức ăn nước uống đã được Nô-ê sắm sẵn trong tàu. Con không biết con quạ bay tới đâu, sau khi Nô-ê thả con quạ kia trên tàu ra, chúng đã tìm đến với nhau. Ngày nay, xuất hiện nhiều loại quạ như vậy, là do chúng đã sinh sản thêm ra, thực hiện mệnh lệnh sinh sản đầy dẫy theo như lời ban phước của Chúa.
8 Ông cũng thả một con bồ câu ra, để xem thử nước đã rút khỏi mặt đất chưa.
Trong số 7 cặp bồ câu trống mái là 14 con, Nô-ê chọn ra một con thả ra. Có thể là con trống, vì con trống có sức bay khoẻ hơn. Nô-ê mở cửa sổ mà Chúa truyền ông làm trong khi đóng tàu, thả quạ và bồ câu. Cửa sổ này cao 1 cu-bít, chừng nửa mét, ở hông tàu, đủ rộng để Nô-ê luồn hai tay thả con vật ra. Qua cửa sổ, ông quan sát chúng bay. Các loài khác vẫn ở yên trong tàu.
9 Nhưng bồ câu chẳng tìm được nơi nào đáp chân, nên nó quay về tàu cùng ông, vì nước còn khắp cả trên mặt đất. Ông đưa tay bắt lấy nó và đem nó vào tàu với mình.
Loài vật nào còn giữ được đặc tính ban đầu Đức Chúa Trời đặt để, chịu thuần phục con người, sẽ nhận được sự chăm sóc của Đức Chúa Trời qua loài người. Bồ câu chẳng tìm được nơi nào đáp chân, vì nước còn ngập cả trên mặt đất, nó quay về tàu cùng Nô-ê.
Nô-ê đưa hai lòng bàn tay ra đón bắt bồ câu đem vào tàu. Bồ câu không phải mệt mỏi lao nhọc tự kiếm ăn bên ngoài như loài quạ. Đây là đặc tính Chúa đặt để mỗi loài. Đặc tính đó di truyền. Cho đến ngày nay, quạ vẫn thuộc loài vật ưa tha thẩn tìm kiếm thức ăn bẩn, xác chết hôi thối. Bồ câu thuộc loài vật sạch, thông minh, hiền hoà, chịu thuần phục, dễ nuôi, dễ huấn luyện, thích gần gũi với con người. Bồ câu được xem như biểu tượng của hoà bình.
Bồ câu bay bao xa, bao lâu thì trở về tàu?
Tạ ơn Chúa đã ban cho loài bồ câu có bản năng định vị định hướng bay, nhớ đường bay cách diệu kỳ. Chúa cũng ban sức bay, tốc độ bay và nhiều đặc tính khác, chính vì thế mà bồ câu được Chúa dùng giúp việc cho Nô-ê.
Ngày nay, bồ câu có sức bay vài trăm ki-lô-mét mà không mệt, tốc độ bay vài chục ki-lô-mét trên giờ. Chúa ban cho bồ câu có cặp mắt tinh, tuy nhiên khả năng nhìn kém vào ban đêm. Vì thế, có lẽ bồ câu Nô-ê thả ra bay trong ngày hôm đó , từ sáng sớm đến chiều muộn, trước khi hoàng hôn xuống, đang lúc còn nhìn rõ. Nếu thời đó, sức bay của bồ câu như ngày nay, thì khoảng 10 đến 12 tiếng ban ngày, cả bay đi bay về ước chừng một ngàn ki-lô-mét, thì chúng bay xa chừng nửa ngàn cây số. Đó là con suy luận, còn thực tế bao xa, bao lâu thì Thánh Kinh không nói cụ thể.
10 Ông chờ thêm bảy ngày nữa, ông lại thả bồ câu ra khỏi tàu.
Chờ thêm bảy ngày nữa, là ngày mười tám, tháng thứ mười một cùng năm, lần thứ hai ông thả bồ câu ra khỏi tàu. Lần này, con không thấy nói số lượng bồ câu được Nô-ê thả ra. Có lẽ vẫn là một con bồ câu hôm trước ông thả. Trong số 7 cặp bồ câu trống mái là 14 con, ông chọn ra một con.
11 Buổi chiều, bồ câu về cùng ông, và này, trong mỏ nó tha một lá ô-li-ve mới được bứt ra. Nô-ê biết rằng, nước đã rút khỏi đất.
Tạ ơn Chúa đã đặt để sự thông minh nhanh nhẹn trong loài bồ câu. Hình ảnh bồ câu tha nhành lá ô-li-ve ngày nay còn là biểu tượng của sự sống . Lá ô-li-ve tươi mới được bứt ra từ cây ô-li-ve đang sống. Sau nhiều ngày mưa ngập, sự sống các loài thực vật đã hồi sinh, chồi cây đã ra lá tươi. Cây ô-li-ve là loài có sức sống khoẻ, nó sớm hồi phục lại sau trật lụt.
Có lẽ buổi sớm bình minh vừa lên, Nô-ê mở cửa tàu, thả bồ câu ra, thì chiều bồ câu đã về cùng ông, chúng dùng mỏ tha một lá ô-li-ve. Cho dù chúng là loài vật không có ý thức để hiểu mục đích của con người, nhưng trong chương trình của Chúa, bồ câu đã đáp chân nghỉ tại một cây ô-li-ve xanh tươi, dùng mỏ bứt một lá, ngậm trong mỏ, rồi bay trở về.
Cây ô-li-ve là loài cây bụi, có sức sống cao, trái cây dùng ép lấy dầu. Dầu ô-li-ve tinh sạch dùng thắp đèn nơi Rương Chứng Cớ cho Đấng Tự Hữu Hằng Hữu (Lê-vi-ký 24:2); làm của lễ chay dâng lên Chúa (Dân Số Ký 28:5), dầu thơm xức nơi Thánh cho Chúa (Ê-xuất-tô-ký 30:24). Lá ô-li-ve dài thuôn nhỏ, gân lá mọc đối nhau. Một lá non xanh mới bứt, bồ câu dễ dàng dùng mỏ tha về.
Vườn ô-li-ve, dầu ô-li-ve chỉ về xứ tốt tươi phước hạnh Chúa ban (II Các Vua 18:32; Phục Truyền Luật Lệ Ký 8:8). Đặc biệt cây ô-li-ve là loại cây có cành lá xanh tươi quanh năm. Ngày nay, cây mọc nhiều ở vùng Trung Đông và một số nơi khác nữa. Sự tốt tươi quanh năm của loài cây ô-li-ve được Chúa tượng trưng cho đời sống sung mãn, vui thoả phước hạnh của con dân Chúa trong nhà Đấng Tự Hữu Hằng Hữu (Thi Thiên 52:8; Giê-rê-mi 11:16).
“Nhưng tôi như cây ô-li-ve xanh tươi trong nhà của Thiên Chúa. Tôi trông cậy nơi sự thương xót của Thiên Chúa cho tới đời đời.” (Thi Thiên 52:8).
Có thể bồ câu đã bay và đáp chân tại núi Ô-li-ve. Núi ô-li-ve được nhắc nhiều trong Thánh Kinh. Ngày nay, núi Ô-li-ve nằm ở phía Đông của thủ đô Giê-ru-sa-lem, có độ cao trên tám trăm mét. Nhiều cây Ô-li-ve phủ xanh sườn núi Ô-li-ve. Nơi trước đây hơn hai ngàn năm, Chúa Jesus và các môn đồ của Ngài chọn làm nơi cầu nguyện, nghỉ chân (Mác 13:3; 14:26; Lu-ca 19:37; 22:39; Giăng 8:1). Núi Ô-li-ve cũng là nơi vua Đa-vít đã lên trên đó ngồi khóc cầu nguyện Chúa đang khi ông chạy trốn khỏi Giê-ru-sa-lem do Áp-sa-lôm âm mưu hại ông (II Sa-mu-en 15:30).
Chặng đường bay từ núi Ô-li-ve ở Jerusalem trở về tàu tại núi A-ra-rát con thấy không xa lắm. Hai núi này không quá xa nhau trên bản đồ. Vườn Ghết-sê-ma-nê nơi Chúa Jesus chịu thương khó, vườn ở chân núi Ô-li-ve, đối ngang thành Giê-ru-sa-lem (Giăng 18:1; Mác 14:32; Ma-thi-ơ 26:36). Chúa Jesus và các môn đồ chọn vườn Ghết-sê-ma-nê nơi chân núi Ô-li-ve, ngoài thành Giê-ru-sa-lem, có nhiều bụi cây ô-li-ve xanh tươi cho thoáng mát, yên tĩnh để cầu nguyện, nghỉ ngơi, thông công.
Trong Cuộc Chiến Cuối Cùng của Kỳ Tận Thế sắp tới, Núi Ô-li-ve này sẽ bị xé ra chính giữa từ đông sang tây, làm hai nửa, giữa tạo một trũng lớn. Chúa và Hội Thánh của Ngài sẽ giáng lâm trên Núi Ô-li-ve vào Cuối Kỳ Tận Thế để phán xét toàn thế gian. Điều lạ lùng thú vị là hiện nay, người ta đã phát hiện ra vết nứt của núi này như lời Chúa đã tiên tri từ trước. Có nhiều trận động đất lớn dồn dập sẽ xảy đến trong Kỳ Tận Thế. Một trong số các trận động đất lớn làm cho núi Ô-li-ve bị xé ra chính giữa.
“Trong ngày đó, đôi chân của Ngài sẽ đứng trên Núi Ô-li-ve, là núi đối mặt Giê-ru-sa-lem về phía đông. Và Núi Ô-li-ve sẽ bị xé ra chính giữa từ đông sang tây, thành ra một trũng rất lớn. Phân nửa núi sẽ dời về phương bắc và phân nửa núi sẽ dời về phương nam.” (Xa-cha-ri 14:4).
https://timhieuthanhkinh.com/chu-giai-xa-cha-ri-xa-cha-ri-141-21/
12 Ông chờ thêm bảy ngày nữa và thả bồ câu ra; nhưng chẳng trở về cùng ông nữa.
Thêm bảy ngày nữa là ngày hai mươi lăm, tháng thứ mười một cùng năm đó. Nô-ê thả bồ câu ra lần nữa. Nhưng lần này, bồ câu chẳng chở về cùng Nô-ê nữa. Đức Chúa Trời đã chăm sóc con bồ câu được thả ra này.
13 Vào sáu trăm lẻ một của đời Nô-ê, ngày một, tháng thứ nhất, nước đã rút khỏi đất. Nô-ê mở mui tàu mà nhìn. Này, mặt đất đã khô.
Từ khi các đỉnh núi lộ ra, là ngày một tháng thứ mười (Sáng Thế Ký 8:5), cho đến lúc nước đã rút khỏi đất vào ngày một, tháng thứ nhất, năm sáu trăm lẻ một của đời Nô-ê là tròn 3 tháng. Con không biết con tàu tấp trên rặng núi A-ra-rát ở độ cao bao xa mà Nô-ê ở mui tàu có thể quan sát xuống mặt đất để nhìn biết được mặt đất đã khô.
14 Đến tháng thứ hai, ngày hai mươi bảy, đất đã khô hẳn.
Từ ngày Nô-ê mở mui tàu ra nhìn thấy mặt đất đã khô, cho đến lúc đất đã khô hẳn là 56 ngày. Do nước ngập kéo dài cả năm nên đất thấm nước, ẩm ướt lâu, có những chỗ thành bùn nầy, dầy, cần thời gian gần hai tháng đất mới khô hẳn. Thời gian nước dâng ngập lụt là 40 ngày, thời gian nước rút khỏi mặt đất kéo dài nhiều tháng (khoảng 9 tháng), thời gian đất khô hẳn khoảng 2 tháng.
Tạ ơn Chúa đã cho đất khô hẳn để Nô-ê và các con vật ra khỏi tàu an toàn.
***
Sau đây là các mốc và khoảng thời gian diễn biến trước, trong và sau Cơn Nước Lụt:
- Trước khi xảy ra Cơn Lụt Lớn 120 năm: Chúa phán trước với loài người chương trình huỷ diệt loài người, loài thú, loài côn trùng và loài chim trời (Sáng Thế Ký 6:3, 7). Mặc dù được Chúa cảnh báo trước nhưng loài người không tin, không ăn năn. Một Đức Chúa Trời nghiêm khắc, Ngài rất đau buồn khi ra hình phạt, nhưng đầy lòng nhân từ thương xót, chậm giận. Ngài đã kiên trì nhẫn nại chờ đợi loài người suốt 120 năm.
- Khoảng vài chục năm trước Cơn Lụt Lớn xảy ra: Chúa phán trước với Nô-ê đóng tàu, hướng dẫn chuẩn bị các việc cho việc lên tàu. Chúa hướng dẫn Nô-ê công việc đóng tàu. Chúa cũng phán rõ mục đích đóng tàu để chuẩn bị cho Cơn Lụt Lớn sẽ xảy ra. (Sáng Thế Ký 6:13,22).
- Ngày mười, tháng thứ hai, năm sáu trăm đời Nô-ê: Chúa phán với Nô-ê còn 7 ngày nữa là Cơn Lụt Lớn bắt đầu xảy ra. Chúa cũng phán dặn, hướng dẫn lại cho Nô-ê nhớ các công việc vào tàu để đến thời điểm ông không bị vội. (Sáng Thế Ký 7:1-10).
- Ngày mười bảy, tháng thứ hai, cùng năm (tức năm sáu trăm đời Nô-ê): Cơn Lụt Lớn chính thức bắt đầu, mưa rất lớn bắt đầu (Sáng Thế Ký 7:11). Mực nước bắt đầu dâng lên rất nhanh, trong 40 ngày đêm mưa lụt liên lục, nước đã ngập hết tất cả các ngọn núi.
- Ngày hai mươi bảy, tháng thứ ba, cùng năm: Mưa dứt, kết thúc 40 ngày đêm mưa rất lớn liên tục. Sau đó mực nước từ từ rút dần.
- Ngày mười bảy, tháng thứ bảy, cùng năm: Tàu Nô-ê tấp trên rặng núi A-ra-rát. (Kết hợp Sáng Thế Ký 7:24; 8:3, 4, 5. Con chưa hiểu rõ câu Sáng Thế Ký 7:24, con số 150 ngày này nói “nước dâng trên đất” nghĩa cụ thể là như thế nào, xin Chúa bày tỏ rõ chính xác giúp con. Con cảm tạ ơn Chúa!)
- Ngày một, tháng thứ mười, cùng năm: Nước rút hạ dần, các đỉnh núi lộ ra.
- 40 ngày sau, là ngày mười một, tháng thứ mười một, cùng năm: Nô-ê mở cửa sổ tàu, thả một con quạ, một con bồ câu ra xem nước đã rút khỏi mặt đất chưa. Quạ bay đi bay lại cho đến nước rút khô khỏi đất. Bồ câu trở về cùng Nô-ê vì tìm không tìm được chỗ đáp chân do nước còn khắp cả trên mặt đất. (Sáng Thế Ký 8:6-9).
- 7 ngày sau, là ngày mười tám, tháng thứ mười một, cùng năm: Nô-ê thả bồ câu ra lần thứ 2. Lần này bồ câu trở về cùng Nô-ê, trong mỏ tha về một lá ô-li-ve, báo cho Nô-ê biết rằng nước đã rút khỏi đất (Sáng Thế Ký 8:11).
- 7 ngày sau, là ngày hai mươi lăm, tháng thứ mười một, cùng năm: Nô-ê thả bồ câu ra lần thứ ba. Bồ câu chẳng trở về cùng ông nữa (Sáng Thế Ký 8:12).
- Ngày một, tháng thứ nhất, năm sáu trăm lẻ một đời Nô-ê, nước đã rút khỏi đất. Nô-ê mở mui tàu nhìn ra thấy mặt đất đã khô (Sáng Thế Ký 8:13).
- Ngày hai mươi bảy, tháng thứ hai, đời sáu trăm lẻ một đời Nô-ê, đất đã khô hẳn.
Nô-ê Ra Khỏi Tàu
15 Thiên Chúa phán với Nô-ê rằng:
16 Hãy ra khỏi tàu, ngươi, vợ ngươi, các con trai ngươi, và các vợ của các con trai ngươi.
17 Hãy thả ra với ngươi mọi vật sống của mọi xác thịt đã ở cùng ngươi: nào chim, nào súc vật, nào côn trùng bò trên đất, để cho chúng tràn ra khắp đất, sinh sản và thêm nhiều trên đất.
18 Vậy, Nô-ê cùng các con trai, vợ, và các vợ của các con trai của ông ra khỏi tàu.
19 Mọi vật sống, mọi côn trùng, mọi chim, cùng bất cứ loài gì bò trên đất tùy theo loại đều ra khỏi tàu.
Con tạ ơn quan phòng của Chúa thật là đầy trọn từ đầu đến cuối cho hành trình cứu sự sống trên con tàu Nô-ê. Từ chuẩn bị, trước trong và sau cơn lụt. Lúc chưa xảy đến, sắp xảy đến, đang xảy đến, kết thúc và sau đó, Chúa phán bảo Nô-ê rất là chu đáo, đúng thời điểm. Không những phán bảo, Chúa còn luôn ở cùng hướng dẫn, đồng hành giúp đỡ ông. Nô-ê đã rất gần gũi với Chúa nên mới luôn nghe được Chúa phán bảo trong từng thời điểm, đúng lúc. Ông nghe được Chúa phán rồi cẩn thận làm theo, không vội vàng làm trước.
Nếu như con gần gũi Chúa và có tấm lòng tin kính Chúa, muốn vâng lời làm y theo ý Chúa như Nô-ê thì đời sống con cũng được ơn như vậy. Nếu con vâng lời càng sớm thì con càng nhận được nhiều ơn phước. Do con từ trước chưa thật hết lòng kính yêu, tin cậy và vâng phục thuận theo ý Chúa, con chưa gần gũi Chúa để nhận biết ý Chúa, con chưa kiên trì cẩn thận làm y theo ý Chúa, vội vàng theo ý riêng, đi trước Chúa, làm sai ý Chúa, nên đời sống con đã gặp nhiều khó khăn, mỗi lúc một thêm, hậu quả tội lỗi mang đến. Chúa thương yêu con nên sửa phạt con, để con biết sợ mà ăn năn, quay về tin yêu kính sợ làm theo ý Chúa. Xin Chúa thương giúp con.
Con dâng lời tạ ơn Chúa vì chương trình tốt lành Chúa đã đang và sẽ còn làm ra cho loài người chúng con. Chương trình bảo vệ cứu người và vật sống trên con tàu Nô-ê thật lạ lùng. Có lẽ lúc Nô-ê đóng tàu, nhiều người nhìn vào sẽ thấy kỳ cục, khó hiểu, cười chê. Chúa là thành tín. Tất cả những gì Chúa phán đều là hiện thực, lẽ thật. Có những sự đã xảy ra từ mấy ngàn năm trước, có sự mới và đang diễn ra, cũng có sự chưa xảy đến.
Con tin, sắp tới, Chúa Jesus sẽ đến để cất Hội Thánh của Ngài ra khỏi thế gian, lên với Ngài, liền ngay sau đó là Kỳ Tận Thế vô cùng kinh khiếp sẽ diễn ra. Chúng không xảy ra bằng cơn lụt như thời Nô-ê, nhưng cũng vô cùng kinh khiếp không kém gì, thậm chí còn hơn thế, bởi những thiên tai, động đất, chiến tranh, dịch bệnh, đói kém, sự cai trị của chính quyền độc tài là An-ti Christ, diễn ra trong suốt đúng 7 năm. Kỳ Đại Nạn kinh hãi chưa từng có và sẽ không bao giờ lặp lại. Chúa kết thúc thế gian tội lỗi bằng Kỳ Tận Thế để mở ra thời kỳ Vương Quốc Bình An do chính Đức Chúa Jesus Christ cai trị.
Cơn Lụt Lớn thời Nô-ê, sự huỷ diệt diễn ra quả thật là khủng khiếp. Xong, hình phạt Chúa huỷ diệt bằng nước lụt, cái chết đến nhanh, sự đau khổ trên đất không kéo dài. Còn trong Kỳ Tận Thế, sự đau khổ kéo dài, có những thứ bệnh dịch gây rất khó chịu, hoạn nạn đủ thứ dồn dập, sức người chịu không nổi, theo cách nói dễ hiểu là sống cũng không xong mà chết cũng không được, quả rất kinh hãi ngoài sức tưởng tượng của loài người.
Nô-ê Dâng Của Lễ Thiêu
20 Nô-ê lập một bàn thờ cho Đấng Tự Hữu Hằng Hữu. Ông bắt các súc vật thanh sạch, các con chim thanh sạch, dâng làm của lễ thiêu trên bàn thờ.
Của lễ thiêu, tức của lễ dùng củi chụm lửa đốt, có mùi thơm cho Đấng Tự Hữu Hằng Hữu (Lê-vi-ký 1). Lê-vi-ký 11 và Phục Truyền Luật Lệ Ký có liệt kê các loài vật sạch và không sạch.
21 Đấng Tự Hữu Hằng Hữu ngửi mùi thơm và Đấng Tự Hữu Hằng Hữu phán trong lòng Ngài: Vì loài người mà Ta sẽ chẳng rủa sả đất nữa, bởi sự suy tưởng của lòng loài người vẫn xấu xa từ khi còn tuổi trẻ. Ta cũng sẽ chẳng đánh hại các vật sống như Ta đã làm.
Con cảm tạ Chúa về lòng nhân từ thương xót của Chúa dành cho loài người chúng con cùng muôn loài. Loài người với bản tánh gian ác nhiễm tội từ tổ phụ là A-đam và Ê-va, chẳng đáng được hưởng những ơn phước như ngày nay. Hơi sống của con, những phương tiện sống Chúa ban cho con đây, thật con cũng chẳng đáng được nhận.
Chúa ơi, xin Chúa cho con biết đón nhận ơn thương xót, ban cho của Chúa dành cho con với lòng biết ơn từ trong lòng con, trong mọi nghịch cảnh.
22 Trong khi đất còn, thì mùa gieo giống và mùa gặt hái, lạnh và nóng, mùa hè và mùa đông, ngày và đêm, sẽ chẳng bao giờ ngừng lại.
Con biết ơn Chúa mỗi khi con bưng bát cơm ăn, bữa cơm con ăn mỗi ngày, cơm rau và thức ăn, con có được đều đến từ ơn thương xót của Chúa. Người nông dân gieo hạt, trồng trọt, cày cấy gặt hái trên đất khó nhọc, có được nông sản cũng nhờ ơn thương xót Chúa ban mưa nắng, thuận thì tiết. Cây trái vật nuôi sinh sôi phát triển cũng bởi ơn thương xót Chúa ban mà có được.
Con cảm tạ Chúa đã giúp con đọc suy ngẫm xong chương này. Con cầu xin Đức Thánh Linh dạy dỗ con, cho con hiểu được đúng ý Chúa trong khi con đọc suy ngẫm. Con xin Chúa chỉ dạy cho con cách áp dụng những điều con suy ngẫm vào đời sống của con. Con cầu xin Chúa dùng những phần đọc suy ngẫm Lời Chúa của con để giúp con thêm lên đức tin và tin yêu Chúa, cũng như giúp ích cho nhiều người. Con cầu xin Chúa thương xót dùng những dòng ghi chép này của con để tỉnh thức hai con của con ăn năn quay về với Chúa và với con, ba mẹ con cùng nhau vui thoả trong nhà Chúa. Con cảm tạ Chúa! Con thành kính cầu xin trong danh của Đức Chúa Jesus Christ. A-men!
Phần con cần áp dụng qua 8 chương vừa qua:
+ Con vững tin Thiên Chúa mà con đang thờ phượng là hoàn toàn có thật.
+ Hết cả những gì Chúa bày tỏ trong Thánh Kinh là sự thật. Con cần tin yêu Chúa và sống theo mọi Lời Chúa phán dạy trong đó.
+ Chúa là Đấng Toàn Năng Yêu Thương Con. Con cần luôn vững tin vào quyền năng và tin là Ngài luôn yêu thương con.
Hai con Khánh Tâm và Phúc Hưng yêu thương,
Trong khi mẹ đọc suy ngẫm Lời Chúa, mẹ luôn cầu xin Chúa thương xót chạm vào lòng hai con, một lúc nào đó hai con nhớ mẹ tìm đến đọc những ghi chép này của mẹ, Lời Chúa giúp hai con hiểu hơn được tấm lòng của mẹ dành cho hai con. Qua đó, hai con hiểu càng thêm hơn tình yêu của Chúa dành cho các con để hai con tìm đến với Ngài, thật lòng ăn năn tội. Chỉ duy nhất Chúa mới đổ đầy trong các con tình yêu thật để các con biết yêu kính Chúa, biết ý nghĩa thật của đời sống các con là gì.
Chúa ơi, trong khi con ghi những dòng ghi chép này, con cũng nhớ đến mẹ con. Lúc con xa Hà Nội, mẹ con đang yếu cần các con cháu thay nhau chăm sóc. Con không ở lại chăm mẹ theo nghĩa một người con có bổn phận hiếu kính chăm mẹ lúc đau yếu tuổi già. Trước con ít nhớ về mẹ, con nghĩ Sa-tan đã dùng tình cảm mẹ líu kéo con lại. Mấy ngày gần đây, con nhìn lại sự phạm tội của con, con nhớ đến tình cảm con thương nhớ hai con của con, con nhớ đến mẹ.
Nhớ về mẹ, con chỉ biết cầu xin Chúa thương xót mẹ, cho mẹ thêm sức khoẻ, thêm cơ hội sống. Những lúc mẹ không lẫn, con cầu xin Chúa cho mẹ nhớ đến những lời con nói về Chúa với mẹ, xin Chúa hành động trên tấm lòng của mẹ, để mẹ mở lòng tiếp nhận Chúa, để Chúa cứu linh hồn mẹ, Chúa đến mẹ được cứu hoặc Chúa cất hơi thở mẹ thì linh hồn mẹ sẽ được yên nghỉ trong nơi phước hạnh với Chúa.
Chúa ơi, con biết việc mẹ con và hai con của con trở về với Chúa là khó theo cách nghĩ và sức của con. Vừa rồi con đã quyết định xa con xa mẹ vào đây. Hiện con không thể làm gì hơn cho các con và mẹ. Con chỉ biết kêu cầu ơn thương xót và tin cậy nơi quyền năng của Chúa, đợi phép lạ Chúa làm ra cho mẹ và các con của con. Vì nếu Đức Chúa Trời muốn, thì không có sự gì là khó đối với Ngài.
“Hãy yên lặng và biết rằng Ta là Thiên Chúa; Ta sẽ được tôn cao trong các nước, cũng sẽ được tôn cao trên đất.” (Thi Thiên 46:10).
“Hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ trả lời cho; Ta sẽ tỏ cho ngươi những việc lớn và khó, là những việc ngươi chưa từng biết.” (Giê-rê-mi 33:3).
“Nhưng Đức Chúa Jesus nhìn họ và phán với họ: Với loài người điều này không thể được, nhưng với Thiên Chúa mọi việc đều được.” (Ma-thi-ơ 19:26).
Con cảm tạ ơn Chúa đã cho con được sinh ra, ban cho con có bố có mẹ sinh thành và nuôi con lớn. Con thương mẹ chưa tin nhận Chúa, con cầu xin mẹ sớm ăn năn tội với Chúa để được sống những ngày còn lại trong ân điển của Chúa và linh hồn được cứu. Bao năm mẹ vất vả chăm sóc con, cùng gia đình nuôi con ăn học. Mẹ ra ở cùng con chăm cháu Tâm hơn hai năm liền, từ lúc cháu mới sinh được 5 tháng, hết thời gian con nghỉ phép sau sinh, để con đi làm. Nhiều năm đi làm, chăm sóc con cái, ít khi con về thăm hay nấu cơm nước phụ mẹ, giờ mẹ già yếu, con không ở gần chăm mẹ. Mẹ không biết Chúa nên mẹ chưa hiểu để khuyên dạy con đúng theo Lời Chúa, nhưng mẹ không trách con, mẹ chỉ khóc thương nhớ con, con hiểu nỗi lòng của mẹ. Con nhớ trước đây với bố cũng vậy, bố mẹ luôn sẵn lòng tha thứ cho con và luôn yêu thương con cái.
Con cảm tạ ơn Chúa đã đặt để cho con người cha người mẹ phần xác thịt. Với người cha người mẹ phần xác thịt còn vậy, con cảm nhận thêm hơn về tình yêu của Đức Chúa Trời, là Cha đời đời của con, Ngài rất yêu thương con. Ngài yêu hết cả loài người. Yêu mẹ con, yêu hai con của con, yêu hơn con đã yêu họ.
Con cầu xin Chúa thương xót cảm động lòng mẹ để mẹ tin nhận Chúa. Con cầu xin Chúa yên ủi lòng mẹ. Con mong mẹ và các bác các dì thông cảm cho con. Xin Chúa thương ban cho con đức tin vững vàng trong Chúa, để con được dâng lời cầu nguyện cho mẹ, cho hai con của con và cả những người thân trong gia đình. Xin Chúa thương xót tha thứ cho người thân của con, ban cho hai bên nội ngoại của hai cháu có cơ hội tin nhận Chúa để linh hồn được cứu. Vì không biết Chúa, lại thêm đời sống con đã làm gương xấu mà gia đình đã nghĩ xấu về Chúa, vu khống Hội Thánh, con xin Chúa tha thứ cho con và tha thứ cho gia đình con.
Con cảm tạ Chúa và con cám ơn đến các bác các dì ở nhà đã thay nhau chăm sóc mẹ, làm giúp phần việc cho con. Con cầu xin Chúa thương ban cho con sớm có đời sống vui thoả trong Chúa, cho con có năng lực làm ra những việc lành làm sáng danh Chúa, qua đó, gia đình con có cơ hội nhìn nhận Chúa thật là tốt đẹp, chứ không phải xấu như đã lầm tưởng.
“Hãy nếm và biết, Đấng Tự Hữu Hằng Hữu là tốt lành! Phước cho người nào nương náu mình nơi Ngài!” (Thi Thiên 34:8).
“Đức Chúa Jesus phán rằng: Sao ngươi gọi Ta là tốt lành? Chỉ có một Đấng tốt lành, là Đức Chúa Trời.” (Lu-ca 18:19).
Thi Thiên 105:1-4
1 Hãy tôn vinh Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, cầu khẩn danh của Ngài; hãy truyền ra giữa các dân những công việc Ngài!
2 Hãy hát, hãy hát cho Ngài những bài ca! Hãy nói về các việc lạ lùng của Ngài.
3 Hãy chiếu sáng các ngươi trong danh thánh của Ngài. Nguyện lòng của những ai tìm kiếm Đấng Tự Hữu Hằng Hữu được vui mừng!
4 Hãy cầu Đấng Tự Hữu Hằng Hữu và quyền phép Ngài, hãy tìm kiếm mặt Ngài luôn luôn.
Trong ân điển Đức Chúa Jesus Christ,
Nguyễn Thị Lan
(19/06/2022)