Sáng Thế Ký 21

107 views

Sáng Thế Ký Chương 21

I-sác Ra Đời

1 Đấng Tự Hữu Hằng Hữu đến viếng Sa-ra, theo như lời Ngài đã phán, và làm cho nàng như lời Ngài đã nói.

Được Chúa thăm viếng là một ơn phước rất lớn cho Sa-ra. Như lời Ngài đã phán là nói đến lời Chúa đã phán với Áp-ra-ham trong Sáng Thế Ký 17:19, 21; về Ngài sẽ ban cho Áp-ra-ham và Sa-ra một con trai, là I-sác.

2 Sa-ra thụ thai, sinh một con trai cho Áp-ra-ham trong khi tuổi đã già, đúng kỳ Thiên Chúa đã định.

Cảm tạ Chúa, Ngài là thành tín, đã làm thành lời hứa của Ngài, y như Ngài đã hứa trước đó khoảng 1 năm (Sáng Thế Ký 17:21), đúng theo kỳ định của Ngài. Thiên Chúa luôn có kỳ định cho mỗi việc làm mình. Ngài cũng làm ra các kỳ định đối với muôn vật (Truyền Đạo 3:1-8).

3 Áp-ra-ham đặt tên đứa trai mà Sa-ra đã sinh cho mình là I-sác.

I-sác được người cha mình là Áp-ra-ham đặt tên, y như Chúa đã phán với ông trong Sáng Thế Ký 17:19.

4 Đúng tám ngày, Áp-ra-ham làm phép cắt bì cho I-sác theo như lời Thiên Chúa đã phán dặn.

Phép cắt bì vào ngày thứ tám được Chúa phán dặn Áp-ra-ham trong Sáng Thế Ký 17:12. Không phải trùng hợp ngẫu nhiên, khoa học ngày nay đã nghiên cứu, cho biết: Ngày thứ tám là ngày đứa trẻ đạt miễn dịch tự nhiên cao nhất trong đời.

5 Khi I-sác ra đời, thì Áp-ra-ham đã được một trăm tuổi.

I-sác được ra đời sau một năm từ ngày Chúa tái lập lại giao ước với Áp-ra-ham, theo đúng lời hứa của Chúa trong Sáng Thế Ký 17:19, 21.

6 Sa-ra nói rằng: Thiên Chúa làm cho tôi một việc vui cười; hết thảy ai hay được cũng sẽ vui cười về sự của tôi.

Vui cười ở đây theo con hiểu là niềm vui mừng đến bất ngờ; điều ngạc nhiên đến khó tin nhưng đã xảy ra thật. Vui cười trong sự tôn vinh, cảm tạ Chúa. Cho dù với người thế gian hay ai đó chưa hiểu đường lối, ý Chúa, qua đó cũng sẽ vui cười về điều lạ lùng Chúa làm ra.

Sự vui cười có thể đến từ Chúa và không đến từ Chúa. Sự vui cười đến từ Chúa trong niềm vui phước hạnh hân hoan, tôn cao, quý trọng danh Chúa (Gióp 3:7; 8:21); Thi Thiên 126:2; Châm Ngôn 31:25; Ê-sai 66:10). Sự vui cười không đến từ Chúa: chê cười, phỉ báng, xúc phạm, coi rẻ danh Chúa; cười trên tội lỗi; cười nhạo sự thánh khiết và sự làm theo Lời Chúa. (Truyền Đạo 7:6; Châm Ngôn 14:9a; II Sử Ký 36:16).

Con nghĩ đến những ngày khó khăn sắp đến, Ngày Chúa Đến sẽ xảy tới trong tương lai rất gần. Những điều ắt sẽ xảy đến y theo Thánh Kinh bày tỏ, Chúa tiên tri trước. Ai có lòng tin, mong đợi thì luôn vui mừng trong sự chuẩn bị, sẵn sàng, trông cậy. Trái lại, là sự cười nhạo cho kẻ chẳng tin, khi họ nhìn thấy sự chuẩn bị hay tin làm theo của con dân chân thật của Chúa.

7 Lại nói rằng: Có ai dám nói với Áp-ra-ham rằng Sa-ra sẽ cho con bú sao? Vì tôi đã sinh một đứa trai trong lúc người già yếu rồi.

Theo con hiểu, đây không phải là Sa-ra nhận thấy mình già yếu rồi; mà bà nghĩ đến chuyện cho con bú sẽ ra sao. Đây vẫn là sự cảm tạ tôn vinh Chúa của bà, bà quá vui mừng trong việc Chúa ban cho mình con trong khi tuổi già. Dù Chúa đã phán trước, nhưng bà vẫn không khỏi ngỡ ngàng.

A-ga và Ích-ma-ên Bị Đuổi – Thiên Chúa Che Chở

8 Đứa trẻ lớn lên, thì thôi bú. Trong ngày I-sác thôi bú, Áp-ra-ham bày một tiệc lớn ăn mừng.

Con không biết Sa-ra ở tuổi chín mươi mới sinh con, bà có đủ sữa và cho con bú đến lúc nào, có cần người phụ nữ khác cho I-sắc bú nhờ thêm hay không. Con tin là Chúa đã cho bà có con ở tuổi đó thì Chúa cũng cho bà có đủ sữa nuôi con trong những năm tháng đầu đời của đứa trẻ. Tuổi thôi bú của trẻ chừng 2-3 tuổi, lúc đó trẻ đã biết nói (Ma-thi-ơ 21:16; Thi Thiên 8:2), cũng là lúc trẻ chuyển từ thức ăn sữa sang ăn cháo, cơm. Có lẽ lúc này I-sác chừng 3 tuổi.

9 Sa-ra thấy đứa trai của A-ga, người Ê-díp-tô, đã sinh cho Áp-ra-ham, chế giễu,

Theo Sáng Thế Ký 16:16, Ích-ma-ên sinh ra thì Áp-ra-ham tám mươi sáu tuổi. I-sác sinh lúc Áp-ra-ham tròn một trăm tuổi. Như vậy Ích-ma-ên hơn I-sác 14 tuổi. Lúc I-sác thôi bú, Ích-ma-ên chừng 17 tuổi.

Ở tuổi thiếu niên mới lớn, lại con trai một của một người mẹ xứ Ê-díp-tô, dù là con của chủ Áp-ra-ham, ít nhiều có sống với Áp-ra-ham và Sa-ra, là hai người tin kính Chúa, xong A-ga chưa có thật hạ mình tin nhận Chúa. Đời sống bà chưa được Chúa tái sinh, biến đổi, nên bà cũng chưa biết dạy dỗ con theo đường lối tin kính Chúa. Đứa trẻ lớn lên chưa ăn năn tiếp nhận Chúa. Có lẽ chính vì thế, Ích-ma-ên dễ học theo tính nét xấu của mẹ xứ Ê-díp-tô, như bao người không tin nhận Chúa.

Cậu con trai nàng A-ga đã chế giễu hai mẹ con Sa-ra, cũng là bà chủ mình, ngay trong ngày ăn mừng thôi bú. Chừng mười bẩy mười tám năm trước đó, khi Ích-ma-ên còn trong bụng A-ga, chưa được sinh ra, hai mẹ con đã phải trốn tránh nơi đồng vắng, vì nàng biết mình có thai với Áp-ra-ham, đã khinh bỉ bà chủ mình. Thì ngày nay, con trai nàng lại chế giễu I-sác trong ngày lễ thôi bú, dẫn đến cảnh mẹ con một lần nữa lại bị đuổi ra khỏi nhà. Việc làm đó không đẹp ý Chúa. Con buồn thương cho hai mẹ con nàng.

10 thì người nói với Áp-ra-ham rằng: Hãy đuổi tớ gái với con nó đi đi, vì đứa trai của tớ gái này sẽ chẳng được kế nghiệp cùng con trai tôi là I-sác đâu.

Con nhớ đến câu Thánh Kinh trong sách Châm Ngôn 30:23.

Châm Ngôn 30:21-23:

21 Có ba sự làm cho trái đất rúng động, và bốn điều nó không thể chịu nổi:

22 Kẻ tôi tớ khi hắn lên ngai vua; kẻ ngu muội khi hắn được no đủ thức ăn;

23 Người đàn bà đáng ghét khi nàng kết hôn; và đứa tớ gái khi nó kế nghiệp bà chủ mình.

Con chưa rõ nàng A-ga có chủ ý trong lòng lên kế nghiệp chủ mình hay không. Con cũng không nghĩ rằng bà Sa-ra nói vậy trong câu 10 có dụng ý nghi ngờ tâm ý trong lòng A-ga. Sa-ra đã nói lên sự thật trong tương lai tại thời điểm đó. Con hiểu đây là việc làm của Chúa. Đức Thánh Linh cảm thúc Sa-ra nói lên điều đó.

11 Lời này lấy làm buồn lòng Áp-ra-ham lắm, vì cớ con trai mình.

Con cảm tạ Chúa đã cho con hiểu được phần nào nỗi lòng của Áp-ra-ham!

Dẫu đứa con được sinh ra theo ý riêng, bởi tội lỗi, không bởi ý Chúa, nhưng cũng bởi gan ruột ông mà có.

12 Nhưng Thiên Chúa phán với Áp-ra-ham rằng: Ngươi chớ buồn bực vì con trai và tớ gái ngươi. Sa-ra nói thế nào, hãy nghe theo tiếng người nói; vì do nơi I-sác sẽ sinh ra dòng dõi lưu danh ngươi.

Đứa con ông sinh ra với nàng hầu gái A-ga khiến ông trạnh lòng, giờ chỉ còn là chọn lựa: vâng theo tiếng Chúa phán hay làm trái nghịch? Chúa là Đấng hiểu từng nỗi lòng, với Áp-ra-ham, Chúa biết sự yếu đuối nơi lòng ông, Chúa đã ở gần, phán dạy, an ủi. Theo liền với lời Chúa phán dạy là lời ban phước đi kèm, nếu làm đúng y theo. Ở đây, Chúa truyền bảo với ông: “Sa-ra nói thế nào, hãy nghe theo tiếng người nói”. Nghĩa là: Sa-ra yêu cầu Áp-ra-ham làm sao thì Áp-ra-ham hãy làm y theo vậy!

Sa-ra trong vai trò người vợ, dưới quyền chồng. Con hiểu: Chúa luôn đặt ý Chúa lên trên mọi sự, thẩm quyền của Chúa là cao nhất. Chúa có thể phán dạy, truyền mệnh lệnh qua một người chức vụ dưới quyền mình trên đất. Chúng ta cần vâng phục các quyền cao hơn mình nếu như điều đó không sai nghịch ý Chúa. Nếu Chúa phán cho riêng ai đó, thì cho dù người đó dưới quyền mình, mình cần nghe theo. Trong gia đình vợ chồng, chồng cần tôn trọng lắng nghe ý kiến góp ý phải lẽ của vợ, thậm chí con cái; đặc biệt với gia đình cùng yêu kính Chúa, nếu ý của vợ, con đến từ sự phán bảo riêng của Chúa, thì chồng hay cha mẹ lúc đó cần tôn trọng lắng nghe, tiếp nhận và vui lòng làm theo, là tôn trọng, lắng nghe và làm theo ý Chúa.

13 Ta cũng sẽ làm cho đứa trai của tớ gái trở nên một dân, vì nó cũng do một nơi ngươi mà ra.

Đây là lời ban phước của Chúa dành cho Áp-ra-ham với con trai ra từ ông và A-ga.

14 Sáng sớm, Áp-ra-ham trỗi dậy, lấy bánh và một bầu nước, đưa cho A-ga, để trên vai nàng, cùng đứa trẻ, rồi đuổi nàng đi. Nàng ra đi, lang thang trong đồng vắng Bê-e-sê-ba.

Áp-ra-ham vâng theo lời Chúa phán, ông làm y theo những gì Sa-ra đã nói với ông. Ông không quên lấy bánh và nước đưa cho hai mẹ con. Bánh và bầu nước được Áp-ra-ham tự tay  đặt trên vai A-ga và con trai, để mẹ con có cái ăn nước uống trong ít ngày trên đường. Ông thương mẹ con khi bị đuổi ra khỏi nhà. Nhưng ông không vì thế mà làm trái ý Chúa. Hành động trỗi dậy thể hiện sự sốt sắng, dứt khoát vâng phục. Ông cứ làm theo. Mọi sự khác ông dâng trình lên Chúa, trong sự thương xót của Chúa.

Qua đây, con cảm nhận được tình yêu thương của Đức Chúa Trời dành cho mẹ con A-ga. Sự mẹ con nàng bị đuổi ra khỏi nhà cũng là điều tốt nhất Chúa dành cho hai mẹ con. Chúa chu cấp những nhu yếu cần dùng cho hai mẹ con.

15 Khi nước trong bầu đã hết, nàng để đứa trẻ dưới một cội cây nhỏ kia,

16 đi ngồi đối diện cách xa xa dài chừng một khoảng tên bắn; vì nói rằng: Ôi! Tôi nỡ nào thấy đứa trẻ phải chết! Nàng ngồi đối diện đó, cất tiếng la khóc.

17 Thiên Chúa nghe tiếng đứa trẻ khóc, thì thiên sứ của Thiên Chúa từ trên trời kêu nàng A-ga mà phán rằng: Hỡi A-ga! Ngươi có điều gì vậy? Chớ sợ gì, vì Thiên Chúa đã nghe tiếng đứa trẻ ở đâu đó rồi.

Ngài lắng nghe, thấu hiểu và dang tay ra chở che, an ủi, giúp đỡ hai mẹ con. Con không thấy Thánh Kinh ghi lại hai mẹ con kêu cầu Chúa, Chúa hiểu được sự sầu khổ, cô đơn trong lòng, cần sự giúp đỡ. Trong cảnh chẳng còn nơi nương dựa, nàng A-ga chỉ biết khóc. Đứa trẻ cũng khóc.

Sáng Thế Ký 16:6-9, con gợi nhớ đến cảnh nàng A-ga đang có thai bị đuổi ra khỏi nhà, lang thang trong đồng vắng, được Thiên Sứ của Chúa hiện ra an ủi, phán dạy.

Ngài là tình yêu thật, bao la. Ngài luôn hiện hữu trong mỗi con người. Trong đời sống mỗi người. Tại từng thời điểm, khi cần, Chúa vẫn luôn hiện diện, sẵn lòng giúp đỡ, mời gọi mỗi người đến với Ngài. Trong mỗi người, có để lòng lắng nghe, đón nhận hay không, là ở mỗi tấm lòng.

“Này, Ta đứng ngoài cửa mà gõ. Nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa, Ta sẽ vào với người, ăn bữa tối với người và người với Ta.” (Khải Huyền 3:20).

“Ta lại nói với các ngươi: Hãy xin, sẽ ban cho; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin thì được, ai tìm thì gặp,  ai gõ cửa thì nó sẽ mở.” (Lu-ca 11:9, 10).

“Ta yêu mến những người yêu mến Ta, bất cứ ai tìm kiếm Ta sẽ gặp Ta.” (Châm Ngôn 8:17).

Ngài mời gọi cả những người chưa biết Chúa đang lầm lạc trên đường đi trong đời sống tội lỗi; Ngài cũng kêu mời gọi cả những ai đã biết Ngài mà còn sống trong tội chưa chịu ăn năn. Lời kêu gọi đầy yêu thương của Chúa vẫn luôn tha thiết:

“Người nói: Các ngươi hãy ăn năn, vì Vương Quốc Trời đã đến gần!” (Ma-thi-ơ 3:2).

Con cảm tạ Chúa, qua tình yêu Chúa dành cho A-ga và con trai nàng, cho con cảm nhận được tình yêu của Chúa dành cho bản thân con. Mỗi sự Chúa ban ơn chu cấp những nhu cầu thuộc linh thuộc thể cho con, đang khi con còn đang phạm tội với Ngài, trong suốt đời sống con trước đây, hay những lúc Chúa sửa phạt, là sự nhân từ thương xót Chúa dành cho con, cho con thêm cơ hội; Ngài dạy dỗ, sửa trị, ban điều tốt nhất cho con, giúp con gần Chúa hơn. Mục đích Chúa muốn con tìm kiếm Chúa, thật lòng ăn năn.

18 Hãy đứng dậy đỡ lấy đứa trẻ và giơ tay nắm nó, vì Ta sẽ làm cho nó nên một dân lớn.

19 Kế đó, Thiên Chúa mở mắt nàng ra; nàng thấy một cái giếng nước, và đi lại múc đầy bầu cho đứa trẻ uống.

Sau tất cả những gì Chúa làm cho hai mẹ con nàng A-ga, Ngài làm bằng tình yêu thương của một Đấng Thiên Chúa Quyền Năng Yêu Thương. Một tình yêu chân thật.

20 Thiên Chúa đã ở cùng đứa trẻ; nó lớn lên, ở trong đồng vắng, có tài bắn cung.

Con cảm tạ Chúa, Ngài đã làm hết những điều tốt nhất dành cho mẹ con nàng A-ga. Còn lại là ở nàng và con trai nàng. Chúa giải quyết nan đề trong đời sống hai mẹ con nàng, nhưng sự cứu rỗi thật là ở tấm lòng có tìm kiếm Chúa để nhận được sự sống và phước hạnh đời đời hay không. Chúa biết trước tấm lòng mỗi người, Chúa có chương trình của Ngài trên mỗi người.

21 Nó ở tại trong đồng vắng Pha-ran; mẹ cưới cho nó một người vợ quê ở xứ Ê-díp-tô.

Con cảm tạ Chúa đã ghi chép lại câu chuyện trên đây cho con đọc hôm nay. Con cảm tạ Chúa cho con hiểu được nỗi lòng của Sa-ra, Áp-ra-ham và nàng A-ga. Đọc câu chuyện, thoạt đầu, sau những việc làm đáng trách, con thấy thương nàng A-ga. Con hình dung cảnh mẹ con nàng nơi đồng vắng  Bê-e-sê-ba, lòng nàng bối rối, chưa biết đi đâu về đâu, nước uống được Áp-ra-ham để trong bình mang theo  không còn, nàng đành phải đặt đứa trẻ để đi kiếm nước, mà không biết kiếm nơi đâu, đứa trẻ một mình ở đó sẽ ra sao khi khát nước.

Trong đời sống, ai cũng có những lầm lỡ, việc làm đáng trách, ra từ tấm lòng gian ác. Điều Chúa mong chờ không gì khác là tấm lòng ăn năn thống hối, tiếp nhận Chúa, xin Chúa tha tội, rửa sạch tội; xin Chúa ban thánh linh, dựng nên mới trong Chúa; nếp sống làm theo đúng Lời Chúa, ý Chúa. Đầu phục vâng Lời. Con đường duy nhất để có sự sống bình an phước hạnh đời đời.

Chúa ơi, con xin Ngài thương xót tha mọi sự gian ác con, giúp con sống trung tín theo Chúa; cho con biết quý trọng ân điển Chúa ban để con không cố ý phạm tội với Chúa. Con cảm tạ ơn thương xót của Chúa!

Áp-ra-ham Kết Ước với Vua A-bi-mê-léc tại Bê-e-sê-ba

22 Về thuở đó, Vua A-bi-mê-léc và Phi-côn, quan tổng binh mình, nói với Áp-ra-ham rằng: Thiên Chúa ở cùng ngươi trong mọi việc ngươi làm.

Vua A-bi-mê-léc là được nói đến trong Sáng Thế Ký chương 20, là vua đã trả Sa-ra lại cho Áp-ra-ham, vì ông nhận biết việc làm của Chúa qua giấc mơ Chúa phán với ông. Áp-ra-ham đã cầu nguyện xin Chúa ban cho vợ A-bi-mê-léc cùng các con gái ông đều có con, không còn son sẻ nữa. Ông nhận biết Chúa ở cùng Áp-ra-ham.

23 Vậy bây giờ, hãy chỉ danh Thiên Chúa mà thề rằng: Ngươi sẽ chẳng gạt ta, con ta cùng dòng giống ta. Nhưng ngươi sẽ đãi ta và xứ ngươi đang trú ngụ, một lòng tử tế như ta đã đãi ngươi vậy.

A-bi-mê-léc đã ngỏ lời kết giao với Áp-ra-ham, ông tin Áp-ra-ham bởi danh Chúa.

24 Áp-ra-ham đáp rằng: Tôi xin thề.

25 Áp-ra-ham phàn nàn cùng Vua A-bi-mê-léc về vụ một giếng kia bị đầy tớ người chiếm đoạt.

26 Vua A-bi-mê-léc nói rằng: Ta chẳng hay ai đã làm nên nông nỗi đó; chính ngươi chẳng cho ta hay trước; ngày nay ta mới rõ đây mà thôi.

27 Kế đó, Áp-ra-ham bắt chiên và bò, dâng cho Vua A-bi-mê-léc; rồi hai người kết ước cùng nhau.

28 Áp-ra-ham lựa để riêng ra bảy con chiên con trong bầy;

Con số 7 là số trọn vẹn về thuộc linh, thể hiện tấm lòng chân thật trọn vẹn của Áp-ra-ham.

29 thì Vua A-bi-mê-léc hỏi rằng: Làm chi để bảy con chiên con đó riêng ra vậy?

30 Đáp rằng: Xin vua hãy nhận lấy bảy con chiên con này mà chính tay tôi dâng cho, để làm chứng rằng tôi đã đào cái giếng này.

31 Bởi cớ ấy, nên họ đặt tên chỗ này là Bê-e-sê-ba; vì tại đó hai người đều đã thề nguyện cùng nhau.

Bê-e-sê-ba thuộc Tây Nam xứ Ca-na-an.

32 Vậy, hai người kết ước cùng nhà tại Bê-e-sê-ba. Kế đó Vua A-bi-mê-léc cùng Tổng Binh Phi-côn đứng dậy, trở về xứ Phi-li-tin.

33 Áp-ra-ham trồng một cây me tại Bê-e-sê-ba, và ở đó người cầu khẩn danh Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, là Thiên Chúa Cứ Còn Lại.

34 Áp-ra-ham trú ngụ lâu ngày tại xứ Phi-li-tin.

Phân đoạn Thánh Kinh trên đây con chưa suy ngẫm được gì mấy. Xin Chúa bày tỏ, dạy dỗ cho con hiểu thêm ạ.

Trong ân điển Đức Chúa Jesus Christ,

Nguyễn Thị Lan

(18/10/2022)

Để lại một bình luận