Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Kính Yêu của chúng con, chúng con dâng lời cảm tạ ơn Cha ban cho chúng con một đêm nghỉ bình an và một ngày mới trong sự quan phòng, ban ơn của Chúa. Chúng con cầu xin Ngài cất ra khỏi chúng con những điều không đẹp lòng Chúa, những vi phạm nào mà chúng con mắc phải trong suy nghĩ, trong nhận thức, trong lời nói, việc làm, ngay cả những điều chúng con không nhận thức được để chúng con được thánh khiết, được Ngài xưng là công chính. Giờ này, chúng con xin nêu sự hiểu của mình về các câu Thánh Kinh Hê-bơ-rơ 11:1-6. Nguyện xin Chúa dạy dỗ, giúp chúng con hiểu và áp dụng Lời Ngài vào trong đời sống mỗi ngày của mình.
1 Đức tin là nền tảng của những điều đang trông mong là bằng cớ của những điều chẳng xem thấy.
2 Vì trong nó mà các trưởng lão đã được lời chứng tốt.
Câu 1-2: Chúng con hiểu đây là khái niệm về đức tin mà tác giả muốn truyền đạt. Điều này cung cấp cho chúng con một định nghĩa ngắn gọn và chính xác về đức tin, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của nó trong đời sống của mỗi con dân Chúa. Đức tin là nền tảng, là sự hỗ trợ cho những điều mà chúng con hy vọng với sự xác quyết mãnh liệt trong lòng, không lay chuyển. Nó cho phép chúng con tin tưởng vào những điều mà chúng con không thể nhìn thấy hoặc cảm nhận được nhưng biết chắc điều mình tin là có thật. Nó cho phép chúng con tin vào những điều mà vượt quá thế giới tự nhiên. Chúng con hiểu các trưởng lão đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp lời chứng tốt cho người khác. Họ là những người làm gương trong đức tin và làm gương cho người khác noi theo.
3 Bởi đức tin, chúng ta hiểu rằng, các thế giới đã được thiết lập bởi tiếng phán của Thiên Chúa. Những vật được nhìn thấy chẳng phải đã hình thành từ những vật thấy được.
Câu 3: Chúng con hiểu rằng, xuất phát từ đức tin mà con dân Chúa xác quyết trong lòng rằng muôn vật được tạo ra là bởi tiếng phán của Thiên Chúa mà không thắc mắc, mặc dù không được chứng kiến sự sáng tạo đó. Bởi đức tin mà con dân Chúa xác quyết về sự thực hữu và toàn năng của Thiên Chúa trong mọi sự vận hành một cách hoàn hảo của mọi tạo vật trong vũ trụ cũng như sự tể trị tuyệt đối của Ngài.
4 Bởi đức tin, A-bên đã dâng lên Đức Chúa Trời một sinh tế tốt hơn của Ca-in. Bởi đó ông đã được làm chứng là công chính, qua sự Đức Chúa Trời làm chứng về lễ vật của ông. Cũng nhờ đó dù đã chết ông vẫn còn nói.
5 Bởi đức tin, Hê-nóc đã được biến hóa, không thấy sự chết. Ông không được tìm thấy nữa, vì Đức Chúa Trời đã biến hóa ông. Vì trước khi sự biến hóa xảy ra, ông đã được chứng rằng, ông đã ở vừa lòng Đức Chúa Trời.
Câu 4-5: Chúng con hiểu tác giả cung cấp cho chúng ta hai ví dụ điển hình về đức tin từ thời Cựu Ước: A-bên và Hê-nóc. Cả hai đều là những người sống một đời sống dựa trên đức tin và được Đức Chúa Trời ban thưởng cho sự vâng phục của họ.
A-bên dâng lên Đức Chúa Trời một sinh tế bằng con chiên đầu lòng trong bầy, thể hiện sự vâng phục và tin cậy của ông vào Đức Chúa Trời. Lễ vật của A-bên được Đức Chúa Trời chấp nhận, trong khi lễ vật của Ca-in bằng hoa màu đồng ruộng thì bị khước từ. Đức tin của A-bên được thể hiện qua hành động dâng lễ vật, và điều này làm cho ông trở nên công chính trước mặt Đức Chúa Trời. Mặc dù A-bên đã bị Ca-in giết hại, nhưng sự hy sinh của ông vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến thế giới. Lời chứng của A-bên về đức tin và sự vâng phục, bài học này vẫn còn vang vọng cho đến ngày nay.
Hê-nóc là một người sống một đời sống thánh khiết và vâng phục Đức Chúa Trời. Nhờ đức tin của mình, ông được Đức Chúa Trời biến hóa và đưa lên Thiên đàng mà không cần trải qua sự chết. Sự biến hóa của Hê-nóc là một minh chứng cho sức mạnh của đức tin. Nó cho thấy rằng Đức Chúa Trời có thể làm những điều kỳ diệu cho những người tin vào Ngài. Hê-nóc sống một đời sống làm hài lòng Đức Chúa Trời, và điều này dẫn đến sự Ngài đã chọn ông, biến hóa của ông cũng như Ê-li để cất ông ra khỏi thế gian lúc còn sống, để được đồng cai trị với Chúa.
6 Không có đức tin thì không thể nào làm vừa lòng Ngài. Vì người đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng, Ngài thực hữu. Đối với những ai tìm kiếm Ngài, Ngài là Đấng Ban Thưởng.
Câu 6: Chúng con hiểu sau những khái niệm và các ví dụ là lời kết luận của tác giả về giá trị của đức tin mà mỗi con dân Chúa phải có và gây dựng cho chính mình và người khác. Các câu trước tác giả nhấn mạnh về giá trị của việc có đức tin vào Thiên Chúa thì câu này tác giả giả định về sự không có đức tin thì đem lại hậu quả trong đời sống của mỗi con dân Chúa là không thể nào làm vừa lòng Ngài. Cụm từ "làm vừa lòng Ngài" đề cập đến việc sống một đời sống vâng phục với ý muốn của Đức Chúa Trời. Câu này cho chúng ta biết rằng đức tin là điều cần thiết để có một mối quan hệ với Đức Chúa Trời và sống một đời sống làm hài lòng Ngài. Trước nhất của đức tin là tin rằng Thiên Chúa là thực hữu, những ai muốn đến gần Ngài thì phải tin rằng sự có thật của Thiên Chúa. Ngài là Đấng Toàn Năng, sáng tạo nên muôn loài vạn vật và hiện đang tể trị, vận hành vũ trụ cũng như muôn vật trong nó. Ngài cũng là Đấng giàu lòng thương xót và hay ban thưởng với những ai có lòng tìm kiếm sự công chính, yêu thương, thánh khiết cũng như mọi chương trình kế hoạch tốt lành của Ngài.
Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Kính Yêu của chúng con, chúng con dâng lời cảm tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con có đức tin vào sự thực hữu và mọi Lời trong Thánh Kinh. Chúng con cảm tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con tin rằng Đức Chúa Jesus là Thiên Chúa nhập thể làm người, Ngài đã chết thay tội lỗi cho chúng con và hoàn toàn chương trình cứu rỗi chúng con ra khỏi quyền lực và hậu quả của tội lỗi, hiện Ngài đang ở bên phải và đồng cai trị với Đức Chúa Trời. Chúng con cảm tạ ơn Ngài đã kéo chúng con đến với sự tin nhận Đức Chúa Jesus Christ làm Cứu Chúa cuộc đời mình để chúng con được sống trong ân điển, đồng hành trong chương trình đời đời mà Ngài sắm sẵn cho chúng con. Nguyện xin Ngài thêm sức cho chúng con để chúng con luôn bước đi trong đức tin và sống một đời sống vâng phục hoàn toàn vào mọi Lời phán và tiêu chuẩn của Ngài trong Thánh Kinh, để chúng con luôn ở trong địa vị làm con cái và được hưởng cơ nghiệp Ngài đã sắm sẵn. Chúng con cảm tạ ơn Ngài và thành kính cầu nguyện trong danh Đức Chúa Jesus Christ. A-men!
Trong ân điển của Đức Chúa Jesus Christ.
Nguyễn Công Hải
Trần Thị Tâm
Hê-bơ-rơ 11:1-6 Đức Tin và Gương Đức Tin – Phần 1
Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Kính Yêu của chúng con, chúng con dâng lời cảm tạ ơn Cha ban cho chúng con một đêm nghỉ bình an và một ngày mới trong sự quan phòng, ban ơn của Chúa. Chúng con cầu xin Ngài cất ra khỏi chúng con những điều không đẹp lòng Chúa, những vi phạm nào mà chúng con mắc phải trong suy nghĩ, trong nhận thức, trong lời nói, việc làm, ngay cả những điều chúng con không nhận thức được để chúng con được thánh khiết, được Ngài xưng là công chính. Giờ này, chúng con xin nêu sự hiểu của mình về các câu Thánh Kinh Hê-bơ-rơ 11:1-6. Nguyện xin Chúa dạy dỗ, giúp chúng con hiểu và áp dụng Lời Ngài vào trong đời sống mỗi ngày của mình.
1 Đức tin là nền tảng của những điều đang trông mong là bằng cớ của những điều chẳng xem thấy.
2 Vì trong nó mà các trưởng lão đã được lời chứng tốt.
Câu 1-2: Chúng con hiểu đây là khái niệm về đức tin mà tác giả muốn truyền đạt. Điều này cung cấp cho chúng con một định nghĩa ngắn gọn và chính xác về đức tin, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của nó trong đời sống của mỗi con dân Chúa. Đức tin là nền tảng, là sự hỗ trợ cho những điều mà chúng con hy vọng với sự xác quyết mãnh liệt trong lòng, không lay chuyển. Nó cho phép chúng con tin tưởng vào những điều mà chúng con không thể nhìn thấy hoặc cảm nhận được nhưng biết chắc điều mình tin là có thật. Nó cho phép chúng con tin vào những điều mà vượt quá thế giới tự nhiên. Chúng con hiểu các trưởng lão đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp lời chứng tốt cho người khác. Họ là những người làm gương trong đức tin và làm gương cho người khác noi theo.
3 Bởi đức tin, chúng ta hiểu rằng, các thế giới đã được thiết lập bởi tiếng phán của Thiên Chúa. Những vật được nhìn thấy chẳng phải đã hình thành từ những vật thấy được.
Câu 3: Chúng con hiểu rằng, xuất phát từ đức tin mà con dân Chúa xác quyết trong lòng rằng muôn vật được tạo ra là bởi tiếng phán của Thiên Chúa mà không thắc mắc, mặc dù không được chứng kiến sự sáng tạo đó. Bởi đức tin mà con dân Chúa xác quyết về sự thực hữu và toàn năng của Thiên Chúa trong mọi sự vận hành một cách hoàn hảo của mọi tạo vật trong vũ trụ cũng như sự tể trị tuyệt đối của Ngài.
4 Bởi đức tin, A-bên đã dâng lên Đức Chúa Trời một sinh tế tốt hơn của Ca-in. Bởi đó ông đã được làm chứng là công chính, qua sự Đức Chúa Trời làm chứng về lễ vật của ông. Cũng nhờ đó dù đã chết ông vẫn còn nói.
5 Bởi đức tin, Hê-nóc đã được biến hóa, không thấy sự chết. Ông không được tìm thấy nữa, vì Đức Chúa Trời đã biến hóa ông. Vì trước khi sự biến hóa xảy ra, ông đã được chứng rằng, ông đã ở vừa lòng Đức Chúa Trời.
Câu 4-5: Chúng con hiểu tác giả cung cấp cho chúng ta hai ví dụ điển hình về đức tin từ thời Cựu Ước: A-bên và Hê-nóc. Cả hai đều là những người sống một đời sống dựa trên đức tin và được Đức Chúa Trời ban thưởng cho sự vâng phục của họ.
A-bên dâng lên Đức Chúa Trời một sinh tế bằng con chiên đầu lòng trong bầy, thể hiện sự vâng phục và tin cậy của ông vào Đức Chúa Trời. Lễ vật của A-bên được Đức Chúa Trời chấp nhận, trong khi lễ vật của Ca-in bằng hoa màu đồng ruộng thì bị khước từ. Đức tin của A-bên được thể hiện qua hành động dâng lễ vật, và điều này làm cho ông trở nên công chính trước mặt Đức Chúa Trời. Mặc dù A-bên đã bị Ca-in giết hại, nhưng sự hy sinh của ông vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến thế giới. Lời chứng của A-bên về đức tin và sự vâng phục, bài học này vẫn còn vang vọng cho đến ngày nay.
Hê-nóc là một người sống một đời sống thánh khiết và vâng phục Đức Chúa Trời. Nhờ đức tin của mình, ông được Đức Chúa Trời biến hóa và đưa lên Thiên đàng mà không cần trải qua sự chết. Sự biến hóa của Hê-nóc là một minh chứng cho sức mạnh của đức tin. Nó cho thấy rằng Đức Chúa Trời có thể làm những điều kỳ diệu cho những người tin vào Ngài. Hê-nóc sống một đời sống làm hài lòng Đức Chúa Trời, và điều này dẫn đến sự Ngài đã chọn ông, biến hóa của ông cũng như Ê-li để cất ông ra khỏi thế gian lúc còn sống, để được đồng cai trị với Chúa.
6 Không có đức tin thì không thể nào làm vừa lòng Ngài. Vì người đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng, Ngài thực hữu. Đối với những ai tìm kiếm Ngài, Ngài là Đấng Ban Thưởng.
Câu 6: Chúng con hiểu sau những khái niệm và các ví dụ là lời kết luận của tác giả về giá trị của đức tin mà mỗi con dân Chúa phải có và gây dựng cho chính mình và người khác. Các câu trước tác giả nhấn mạnh về giá trị của việc có đức tin vào Thiên Chúa thì câu này tác giả giả định về sự không có đức tin thì đem lại hậu quả trong đời sống của mỗi con dân Chúa là không thể nào làm vừa lòng Ngài. Cụm từ "làm vừa lòng Ngài" đề cập đến việc sống một đời sống vâng phục với ý muốn của Đức Chúa Trời. Câu này cho chúng ta biết rằng đức tin là điều cần thiết để có một mối quan hệ với Đức Chúa Trời và sống một đời sống làm hài lòng Ngài. Trước nhất của đức tin là tin rằng Thiên Chúa là thực hữu, những ai muốn đến gần Ngài thì phải tin rằng sự có thật của Thiên Chúa. Ngài là Đấng Toàn Năng, sáng tạo nên muôn loài vạn vật và hiện đang tể trị, vận hành vũ trụ cũng như muôn vật trong nó. Ngài cũng là Đấng giàu lòng thương xót và hay ban thưởng với những ai có lòng tìm kiếm sự công chính, yêu thương, thánh khiết cũng như mọi chương trình kế hoạch tốt lành của Ngài.
Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Kính Yêu của chúng con, chúng con dâng lời cảm tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con có đức tin vào sự thực hữu và mọi Lời trong Thánh Kinh. Chúng con cảm tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con tin rằng Đức Chúa Jesus là Thiên Chúa nhập thể làm người, Ngài đã chết thay tội lỗi cho chúng con và hoàn toàn chương trình cứu rỗi chúng con ra khỏi quyền lực và hậu quả của tội lỗi, hiện Ngài đang ở bên phải và đồng cai trị với Đức Chúa Trời. Chúng con cảm tạ ơn Ngài đã kéo chúng con đến với sự tin nhận Đức Chúa Jesus Christ làm Cứu Chúa cuộc đời mình để chúng con được sống trong ân điển, đồng hành trong chương trình đời đời mà Ngài sắm sẵn cho chúng con. Nguyện xin Ngài thêm sức cho chúng con để chúng con luôn bước đi trong đức tin và sống một đời sống vâng phục hoàn toàn vào mọi Lời phán và tiêu chuẩn của Ngài trong Thánh Kinh, để chúng con luôn ở trong địa vị làm con cái và được hưởng cơ nghiệp Ngài đã sắm sẵn. Chúng con cảm tạ ơn Ngài và thành kính cầu nguyện trong danh Đức Chúa Jesus Christ. A-men!
Trong ân điển của Đức Chúa Jesus Christ.
Nguyễn Công Hải
Trần Thị Tâm
...