Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Yêu Thương của con ở trên trời, con dâng lời cảm tạ ơn Ngài vì Ngài là tình yêu, con cảm tạ ơn Cha vì sự công chính của Ngài còn đến đời đời. A-men! Con cảm tạ ơn Cha đã ban cho con có thì giờ này được học Lời Chúa trong Ga-la-ti 4:1-11 về luật pháp và ân điển. Con nguyện xin Chúa soi dẫn con, ban ơn cho con học hiểu và có năng lực áp dụng những điều Ngài dạy dỗ con vào đời sống. Con cảm tạ ơn Ngài! A-men!
1 Tôi nói rằng, khi người kế tự đang còn là một đứa trẻ, thì chẳng khác một kẻ nô lệ, dù là chủ của mọi vật,
2 mà ở dưới quyền của những người giám hộ và những người quản gia, cho đến kỳ người cha đã định.
Kính thưa Chúa, con hiểu rằng Sứ Đồ Phao-lô dùng ví dụ về sự con cái kế tự cơ nghiệp của gia tộc để giúp cho con dân Chúa trong các Hội Thánh tại Ga-la-ti hiểu rõ sự khác nhau giữa luật pháp và ân điển. Trong văn hóa của người La-mã và Hy-lạp thời đó thì những người giàu có thuê hoặc cử ra một nô lệ trong nhà có khả năng làm người giám hộ cho con của mình. Người giám hộ chăm lo cuộc sống cho đứa trẻ, bảo vệ, kỷ luật và dạy dỗ nó về cả văn hóa, đạo đức. Đứa trẻ muốn làm gì cũng phải được người giám hộ cho phép. Đứa trẻ luôn dưới quyền người giám hộ đến thời điểm người cha đã định. Những nhà thật giàu có còn có cả người quản gia thay chủ cai quản toàn bộ cơ nghiệp, và đứa trẻ cũng dưới quyền của người quản gia.
3 Chúng ta cũng như vậy, khi còn là những trẻ con, thì bị bắt làm nô lệ dưới các lề thói của thế gian.
Câu 3: Con hiểu rằng Phao-lô ví con dân Chúa phải chịu những lề thói của thế gian giống như những người con kế tự dưới quyền giám hộ, đang chờ hưởng cơ nghiệp.
4 Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài bởi một người nữ sinh ra, sinh ra dưới luật pháp,
5 để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp, để chúng ta được nhận làm con nuôi.
Câu 4, câu 5: Con hiểu rằng kỳ hạn mà Đức Chúa Trời định trước để cứu rỗi nhân loại qua sự chết chuộc tội của Con của Đức Chúa Trời. Gọi là Con của Đức Chúa Trời là vì Ngài được sinh ra bởi trinh nữ Ma-ri. Chuộc những kẻ ở dưới luật pháp là loài người ở dưới quyền lực và hậu quả của tội lỗi. Sự được nhận làm con nuôi là những con dân Chúa được cứu rỗi và được nhận những ơn phước làm con nuôi của Đức Chúa Trời.
6 Vì các anh chị em là con, nên Đức Chúa Trời đã sai Đấng Thần Linh của Con Ngài vào lòng của các anh chị em, kêu rằng: A-ba! Cha!
Câu 6: Con cảm nhận rằng sự được ban cho Đấng Thần Linh của Con Ngài là một điều huyền nhiệm, bởi vì chỉ có sự tin nhận Tin Lành của Thánh Kinh mới có được sự này. Và con cảm tạ ơn Chúa bởi khi con thật lòng tin Chúa, thì Đức Thánh Linh cũng ngự trong lòng của con, cho con gọi Đức Chúa Trời là Cha!
7 Vậy nên anh chị em không còn là nô lệ nữa, mà là con; và nếu là con, thì cũng là người kế tự của Thiên Chúa, qua Đấng Christ.
Câu 7: Con hiểu rằng, khi tin nhận Chúa là con thoát khỏi nô lệ cho tội lỗi. Chẳng những vậy, từ địa vị làm nô lệ, con được Ngài nâng lên địa vị làm con nuôi của Đức Chúa Trời. Con lại được hưởng quyền kế tự cơ nghiệp của Thiên Chúa. Dù là con nuôi nhưng cũng đồng được hưởng cơ nghiệp mà Đức Chúa Trời ban cho Đức Chúa Jesus Christ. Ơn phước thuộc linh này quá đỗi lớn lao. Con nguyện xin Chúa luôn ban ơn, thêm sức cho con trên bước đường theo Chúa, luôn cậy ơn Chúa đứng vững trong đức tin, gắng sức làm những việc lành mà Chúa kêu gọi con để chờ ngày được biến hóa vinh quang đời đời trong nước Cha.
8 Nhưng thật ra trước kia, khi các anh chị em chẳng biết Thiên Chúa, thì các anh chị em làm nô lệ cho các thứ vốn không phải là Thiên Chúa.
Câu 8: Con hiểu rằng, trước kia con chưa tin Chúa thì con làm nô lệ cho cuộc đời này, nhất là nô lệ cho cái tôi, sự kiêu ngạo của bản thân mình nên con không có sự bình an thật. Con cảm tạ ơn Chúa đã cứu con ra khỏi những sự nô lệ ấy.
9 Còn hiện nay, các anh chị em biết Thiên Chúa lại được Thiên Chúa biết đến nữa, sao các anh chị em còn quay về với những lề thói yếu đuối, khó nghèo đó? Các anh chị em muốn bắt đầu làm nô lệ sao?
Câu 9: Con hiểu rằng sự biết Thiên Chúa và lại được Thiên Chúa biết đến trong câu này là sự thông công hiệp một giữa người thuộc về Chúa. Thật vậy, chỉ ai có thần trí của Thiên Chúa thì mới là con cái của Ngài. Và khi người nào biết Chúa, được Chúa biết đến nghĩa là người đó trong sự cứu rỗi, được thần trí của Thiên Chúa soi dẫn.
10 Các anh chị em hãy còn giữ những ngày, tháng, mùa, năm sao?
11 Tôi lo cho các anh chị em, sợ rằng tôi đã lao lực cho các anh chị em cách vô ích.
Câu 10, câu 11: Con hiểu rằng Sứ Đồ Phao-lô đang nói đến sự giữ ngày, tháng, năm là các lễ nghi tín ngưỡng nào đó nghịch lại Thánh Kinh nên ông lo cho họ mất sự cứu rỗi, và nếu họ mất sự cứu rỗi thì ông đã lao lực cho các anh chị em ở các thành Cô-rinh-tô cách vô ích vì ông và các bạn của ông là người rao giảng và gầy dựng các Hội Thánh tại đó.
Kính lạy Chúa, con cảm tạ ơn Ngài về sự hiểu trên đây. Con nguyện xin Ngài ban ơn, thêm sức cho con để con mãi được ở trong địa vị làm con cái của Ngài! Cảm tạ Chúa! A-men!
Ga-la-ti 4:1-11 Luật Pháp và Ân Điển
Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Yêu Thương của con ở trên trời, con dâng lời cảm tạ ơn Ngài vì Ngài là tình yêu, con cảm tạ ơn Cha vì sự công chính của Ngài còn đến đời đời. A-men! Con cảm tạ ơn Cha đã ban cho con có thì giờ này được học Lời Chúa trong Ga-la-ti 4:1-11 về luật pháp và ân điển. Con nguyện xin Chúa soi dẫn con, ban ơn cho con học hiểu và có năng lực áp dụng những điều Ngài dạy dỗ con vào đời sống. Con cảm tạ ơn Ngài! A-men!
1 Tôi nói rằng, khi người kế tự đang còn là một đứa trẻ, thì chẳng khác một kẻ nô lệ, dù là chủ của mọi vật,
2 mà ở dưới quyền của những người giám hộ và những người quản gia, cho đến kỳ người cha đã định.
Kính thưa Chúa, con hiểu rằng Sứ Đồ Phao-lô dùng ví dụ về sự con cái kế tự cơ nghiệp của gia tộc để giúp cho con dân Chúa trong các Hội Thánh tại Ga-la-ti hiểu rõ sự khác nhau giữa luật pháp và ân điển. Trong văn hóa của người La-mã và Hy-lạp thời đó thì những người giàu có thuê hoặc cử ra một nô lệ trong nhà có khả năng làm người giám hộ cho con của mình. Người giám hộ chăm lo cuộc sống cho đứa trẻ, bảo vệ, kỷ luật và dạy dỗ nó về cả văn hóa, đạo đức. Đứa trẻ muốn làm gì cũng phải được người giám hộ cho phép. Đứa trẻ luôn dưới quyền người giám hộ đến thời điểm người cha đã định. Những nhà thật giàu có còn có cả người quản gia thay chủ cai quản toàn bộ cơ nghiệp, và đứa trẻ cũng dưới quyền của người quản gia.
3 Chúng ta cũng như vậy, khi còn là những trẻ con, thì bị bắt làm nô lệ dưới các lề thói của thế gian.
Câu 3: Con hiểu rằng Phao-lô ví con dân Chúa phải chịu những lề thói của thế gian giống như những người con kế tự dưới quyền giám hộ, đang chờ hưởng cơ nghiệp.
4 Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài bởi một người nữ sinh ra, sinh ra dưới luật pháp,
5 để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp, để chúng ta được nhận làm con nuôi.
Câu 4, câu 5: Con hiểu rằng kỳ hạn mà Đức Chúa Trời định trước để cứu rỗi nhân loại qua sự chết chuộc tội của Con của Đức Chúa Trời. Gọi là Con của Đức Chúa Trời là vì Ngài được sinh ra bởi trinh nữ Ma-ri. Chuộc những kẻ ở dưới luật pháp là loài người ở dưới quyền lực và hậu quả của tội lỗi. Sự được nhận làm con nuôi là những con dân Chúa được cứu rỗi và được nhận những ơn phước làm con nuôi của Đức Chúa Trời.
6 Vì các anh chị em là con, nên Đức Chúa Trời đã sai Đấng Thần Linh của Con Ngài vào lòng của các anh chị em, kêu rằng: A-ba! Cha!
Câu 6: Con cảm nhận rằng sự được ban cho Đấng Thần Linh của Con Ngài là một điều huyền nhiệm, bởi vì chỉ có sự tin nhận Tin Lành của Thánh Kinh mới có được sự này. Và con cảm tạ ơn Chúa bởi khi con thật lòng tin Chúa, thì Đức Thánh Linh cũng ngự trong lòng của con, cho con gọi Đức Chúa Trời là Cha!
7 Vậy nên anh chị em không còn là nô lệ nữa, mà là con; và nếu là con, thì cũng là người kế tự của Thiên Chúa, qua Đấng Christ.
Câu 7: Con hiểu rằng, khi tin nhận Chúa là con thoát khỏi nô lệ cho tội lỗi. Chẳng những vậy, từ địa vị làm nô lệ, con được Ngài nâng lên địa vị làm con nuôi của Đức Chúa Trời. Con lại được hưởng quyền kế tự cơ nghiệp của Thiên Chúa. Dù là con nuôi nhưng cũng đồng được hưởng cơ nghiệp mà Đức Chúa Trời ban cho Đức Chúa Jesus Christ. Ơn phước thuộc linh này quá đỗi lớn lao. Con nguyện xin Chúa luôn ban ơn, thêm sức cho con trên bước đường theo Chúa, luôn cậy ơn Chúa đứng vững trong đức tin, gắng sức làm những việc lành mà Chúa kêu gọi con để chờ ngày được biến hóa vinh quang đời đời trong nước Cha.
8 Nhưng thật ra trước kia, khi các anh chị em chẳng biết Thiên Chúa, thì các anh chị em làm nô lệ cho các thứ vốn không phải là Thiên Chúa.
Câu 8: Con hiểu rằng, trước kia con chưa tin Chúa thì con làm nô lệ cho cuộc đời này, nhất là nô lệ cho cái tôi, sự kiêu ngạo của bản thân mình nên con không có sự bình an thật. Con cảm tạ ơn Chúa đã cứu con ra khỏi những sự nô lệ ấy.
9 Còn hiện nay, các anh chị em biết Thiên Chúa lại được Thiên Chúa biết đến nữa, sao các anh chị em còn quay về với những lề thói yếu đuối, khó nghèo đó? Các anh chị em muốn bắt đầu làm nô lệ sao?
Câu 9: Con hiểu rằng sự biết Thiên Chúa và lại được Thiên Chúa biết đến trong câu này là sự thông công hiệp một giữa người thuộc về Chúa. Thật vậy, chỉ ai có thần trí của Thiên Chúa thì mới là con cái của Ngài. Và khi người nào biết Chúa, được Chúa biết đến nghĩa là người đó trong sự cứu rỗi, được thần trí của Thiên Chúa soi dẫn.
10 Các anh chị em hãy còn giữ những ngày, tháng, mùa, năm sao?
11 Tôi lo cho các anh chị em, sợ rằng tôi đã lao lực cho các anh chị em cách vô ích.
Câu 10, câu 11: Con hiểu rằng Sứ Đồ Phao-lô đang nói đến sự giữ ngày, tháng, năm là các lễ nghi tín ngưỡng nào đó nghịch lại Thánh Kinh nên ông lo cho họ mất sự cứu rỗi, và nếu họ mất sự cứu rỗi thì ông đã lao lực cho các anh chị em ở các thành Cô-rinh-tô cách vô ích vì ông và các bạn của ông là người rao giảng và gầy dựng các Hội Thánh tại đó.
Kính lạy Chúa, con cảm tạ ơn Ngài về sự hiểu trên đây. Con nguyện xin Ngài ban ơn, thêm sức cho con để con mãi được ở trong địa vị làm con cái của Ngài! Cảm tạ Chúa! A-men!
Trong ân điển của Đức Chúa Jesus Christ.
Trần Thị Thu Hương
Ngày: 21/08/2023