Kính lạy Thiên Chúa, Cha đời đời của con ở trên trời!
Con dâng lời cảm tạ ơn Cha vì hôm nay con được tiếp tục học Lời Ngài trong Ga-la-ti 4:1-11 - Luật Pháp và Ân Điển!
Nguyện Đức Thánh Linh hướng dẫn con vào trong sự học hiểu Lời Chúa và áp dụng bài học trong đời sống hằng ngày!
1 Tôi nói rằng, khi người kế tự đang còn là một đứa trẻ, thì chẳng khác một kẻ nô lệ, dù là chủ của mọi vật,
2 mà ở dưới quyền của những người giám hộ và những người quản gia, cho đến kỳ người cha đã định.
3 Chúng ta cũng như vậy, khi còn là những trẻ con, thì bị bắt làm nô lệ dưới các lề thói của thế gian.
4 Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài bởi một người nữ sinh ra, sinh ra dưới luật pháp,
5 để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp, để chúng ta được nhận làm con nuôi.
6 Vì các anh chị em là con, nên Đức Chúa Trời đã sai Đấng Thần Linh của Con Ngài vào lòng của các anh chị em, kêu rằng: A-ba! Cha! [Trong tiếng A-ra-mai, a-ba = cha.]
7 Vậy nên anh chị em không còn là nô lệ nữa, mà là con; và nếu là con, thì cũng là người kế tự của Thiên Chúa, qua Đấng Christ.
8 Nhưng thật ra trước kia, khi các anh chị em chẳng biết Thiên Chúa, thì các anh chị em làm nô lệ cho các thứ vốn không phải là Thiên Chúa.
9 Còn hiện nay, các anh chị em biết Thiên Chúa lại được Thiên Chúa biết đến nữa, sao các anh chị em còn quay về với những lề thói yếu đuối, khó nghèo đó? Các anh chị em muốn bắt đầu làm nô lệ sao?
10 Các anh chị em hãy còn giữ những ngày, tháng, mùa, năm sao?
11 Tôi lo cho các anh chị em, sợ rằng tôi đã lao lực cho các anh chị em cách vô ích.
Con xin dâng trình lên Cha sự hiểu biết của con về phân đoạn Thánh Kinh trên như sau:
Luật pháp là do Đức Chúa Trời ban hành cho toàn thể nhân loại, làm nền tảng cho loài người sống theo thánh ý tốt lành của Ngài. Nhưng bởi vì không ai có thể giữ trọn luật pháp nên Ngài đã ban Con Một của Ngài đến thế gian, cứu loài người ra khỏi hậu quả và quyền lực của tội lỗi qua sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, để cho những ai thật lòng ăn năn tội, hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài, thì được trở nên địa vị làm con cái của Đức Chúa Trời. Bởi vậy, luật pháp và ân điển có sự khác nhau, và ân điển là ơn thương xót lớn nhất, vô điều kiện của Thiên Chúa ban cho loài người tội lỗi, không xứng đáng được nhận.
Câu 1-2: Phao-lô dùng hình ảnh người kế tự để nói cho con dân Chúa trong các Hội Thánh tại Ga-la-ti về người kế tự, là con cháu kế tiếp trong gia tộc, được hưởng các tài sản và cai quản cơ nghiệp kế thừa từ ông cha, nhưng đang khi còn là một con trẻ, thì phải phụ thuộc vào cha mẹ hoặc người giám hộ như một người nô lệ, dù con trẻ ấy được quyền thừa hưởng gia sản, nhưng chỉ đến kỳ người cha - chủ gia đình đã định khi con trẻ trưởng thành thì mới được công nhận là chủ của mọi tài sản thừa kế. Ngoài ra, người kế tự còn trẻ phải phụ thuộc hoàn toàn vào những người giám hộ và những người quản gia cho tới lúc trưởng thành.
Câu 3: Phao-lô nói về con dân Chúa cũng như vậy, khi còn là trẻ con, đang chờ hưởng cơ nghiệp Chúa hứa ban, thì buộc chúng con vào sự nô lệ dưới các lề thói của thế gian, là những luật lệ, xã hội, tôn giáo đến từ loài người. Trong thời Phao-lô, dân I-sơ-ra-ên đã bị cai trị bởi các điều răn, luật pháp của Thiên Chúa, do thế gian làm sai trệch, và cho đến ngày nay, nhiều hệ tư tưởng tôn giáo vẫn đang được nhiều người ngưỡng mộ.
Câu 4-5: Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn vẹn trong chương trình cứu chuộc nhân loại tội lỗi, Đức Chúa Trời sai Con Ngài, là Thiên Chúa Ngôi Hai, đến thế gian, được thai dựng trong lòng trinh nữ Ma-ri, sinh ra trong thân thể xác thịt loài người, chịu sự ràng buộc, cai trị bởi luật pháp, để chuộc những kẻ đang ở dưới luật pháp, và cho chúng con ngày nay được Ngài nhận làm con nuôi.
Câu 6: Bởi chúng con đã thật lòng ăn năn tội, hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, được trở nên địa vị làm con cái yêu dấu, nên Đức Chúa Trời đã sai Đấng Thần Linh của Con Ngài, ngự vào lòng chúng con, cho chúng con được gọi Đức Chúa Trời bằng danh rất đỗi thân thương, như mối quan hệ giữa một em bé ngây thơ với cha của mình, danh ấy chính là A-ba.
Câu 7-8: Vậy nên, chúng con không còn là nô lệ cho tội lỗi, bị sai khiến làm ra những việc chống nghịch Thiên Chúa, và làm nô lệ cho luật pháp của Ngài. Còn đối với dân ngoại, không thuộc về dân I-sơ-ra-ên vào thời đó, là những người sống ngoài luật pháp được chép trong Thánh Kinh, thì họ đều làm nô lệ cho thế gian, thuộc về ma quỷ. Và khi được trở nên địa vị làm con cái của Đức Chúa Trời, thì chúng con cũng là những người kế tự cơ nghiệp của Thiên Chúa, qua Đấng Christ. Xét về quá khứ, khi chúng con chưa biết Thiên Chúa, thì chúng con đều là những kẻ sống trong tội, làm nô lệ cho các thứ vốn không phải là Thiên Chúa, như vi phạm tất cả các điều răn, luật pháp của Ngài, đắm chìm trong sự mê tín dị đoan, thờ lạy ma quỷ, tôn thờ những sự ô uế ấy ngang bằng Thiên Chúa, bởi sự ngu dại đã khiến chúng con trở nên nô lệ của ma quỷ.
Câu 9: Phao-lô muốn nhắc nhớ con dân Chúa tại Ga-la-ti, và con dân Chúa ngày nay qua hai câu hỏi rằng chúng con đã được biết Thiên Chúa, Đấng yêu thương, công chính, và thánh khiết, Đấng toàn năng có toàn quyền trên muôn loài vạn vật, và lại được Thiên Chúa biết đến, đưa chúng con vào sự tương giao mật thiết với Ngài, ban cho chúng con ơn khôn sáng giữa thế gian để mạnh mẽ bước đi theo sự sáng của Ngài, thì chúng con không thể quay về với đời sống cũ theo lề thói yếu đuối, nghèo khó đức tin nữa. Chúng con được sống tự do trong tình yêu, ân điển của Chúa thì không còn muốn làm nô lệ trở lại nữa. Điều này nhắc nhớ chúng con, hãy luôn tra xét lòng mình, tỉnh thức trong mọi hoàn cảnh trước mưu kế của ma quỷ, sống xứng đáng trong ân điển của Chúa.
Câu 10: Qua sự cảm động của Đức Thánh Linh, Phao-lô nhắc nhớ con dân Chúa tại Ga-la-ti cũng như chúng con ngày nay về những lề thói mê tín dị đoan của thế gian về những ngày, tháng, mùa, năm, hên, xui. Là những việc chúng con đã từ bỏ từ con người cũ, trở nên con người mới trong Chúa, không được giữ những sự đó, kể cả trong suy nghĩ của mình, để hoàn toàn sống theo sự soi dẫn của Chúa theo Thánh Kinh.
Câu 11: Sau khi Phao-lô giảng dạy giáo lý Tin Lành cho con dân Chúa tại Ga-la-ti, ông vẫn luôn chú tâm sốt sắng, lo lắng cho con dân Chúa tại đó về sự các giáo sư giả dẫn dụ họ đi sai lạc Lẽ Thật, mất đi sự cứu rỗi. Nếu con dẫn Chúa bị tà giáo khiến họ không sống theo những lời ông đã giảng dạy, thì công sức lao lực trong sự giảng dạy của ông sẽ trở thành vô ích.
Lạy Chúa!
Bài học hôm nay dạy con nhận biết rõ về con người cũ thuộc về thế gian, và con người mới thuộc về Thiên Chúa. Con không còn giữ việc làm mê tín dị đoan nào của thế gian. Con đã được Chúa đưa con ra khỏi đời sống nô lệ, trở về với sự tự do trong Đấng Christ, được ban năng lực để giữ trọn các điều răn, luật pháp của Thiên Chúa theo thánh ý Ngài. Con đã được ở trong sự cứu rỗi, trở nên con người mới trong Chúa, được Ngài yêu thương, nâng đỡ trong mọi sự trên bước đường trở về Nhà Cha - quê hương đời đời mà Ngài đã sắm sẵn. A-men!
Ga-la-ti 4:1-11 Luật Pháp và Ân Điển
Kính lạy Thiên Chúa, Cha đời đời của con ở trên trời!
Con dâng lời cảm tạ ơn Cha vì hôm nay con được tiếp tục học Lời Ngài trong Ga-la-ti 4:1-11 - Luật Pháp và Ân Điển!
Nguyện Đức Thánh Linh hướng dẫn con vào trong sự học hiểu Lời Chúa và áp dụng bài học trong đời sống hằng ngày!
1 Tôi nói rằng, khi người kế tự đang còn là một đứa trẻ, thì chẳng khác một kẻ nô lệ, dù là chủ của mọi vật,
2 mà ở dưới quyền của những người giám hộ và những người quản gia, cho đến kỳ người cha đã định.
3 Chúng ta cũng như vậy, khi còn là những trẻ con, thì bị bắt làm nô lệ dưới các lề thói của thế gian.
4 Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài bởi một người nữ sinh ra, sinh ra dưới luật pháp,
5 để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp, để chúng ta được nhận làm con nuôi.
6 Vì các anh chị em là con, nên Đức Chúa Trời đã sai Đấng Thần Linh của Con Ngài vào lòng của các anh chị em, kêu rằng: A-ba! Cha! [Trong tiếng A-ra-mai, a-ba = cha.]
7 Vậy nên anh chị em không còn là nô lệ nữa, mà là con; và nếu là con, thì cũng là người kế tự của Thiên Chúa, qua Đấng Christ.
8 Nhưng thật ra trước kia, khi các anh chị em chẳng biết Thiên Chúa, thì các anh chị em làm nô lệ cho các thứ vốn không phải là Thiên Chúa.
9 Còn hiện nay, các anh chị em biết Thiên Chúa lại được Thiên Chúa biết đến nữa, sao các anh chị em còn quay về với những lề thói yếu đuối, khó nghèo đó? Các anh chị em muốn bắt đầu làm nô lệ sao?
10 Các anh chị em hãy còn giữ những ngày, tháng, mùa, năm sao?
11 Tôi lo cho các anh chị em, sợ rằng tôi đã lao lực cho các anh chị em cách vô ích.
Con xin dâng trình lên Cha sự hiểu biết của con về phân đoạn Thánh Kinh trên như sau:
Luật pháp là do Đức Chúa Trời ban hành cho toàn thể nhân loại, làm nền tảng cho loài người sống theo thánh ý tốt lành của Ngài. Nhưng bởi vì không ai có thể giữ trọn luật pháp nên Ngài đã ban Con Một của Ngài đến thế gian, cứu loài người ra khỏi hậu quả và quyền lực của tội lỗi qua sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, để cho những ai thật lòng ăn năn tội, hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài, thì được trở nên địa vị làm con cái của Đức Chúa Trời. Bởi vậy, luật pháp và ân điển có sự khác nhau, và ân điển là ơn thương xót lớn nhất, vô điều kiện của Thiên Chúa ban cho loài người tội lỗi, không xứng đáng được nhận.
Câu 1-2: Phao-lô dùng hình ảnh người kế tự để nói cho con dân Chúa trong các Hội Thánh tại Ga-la-ti về người kế tự, là con cháu kế tiếp trong gia tộc, được hưởng các tài sản và cai quản cơ nghiệp kế thừa từ ông cha, nhưng đang khi còn là một con trẻ, thì phải phụ thuộc vào cha mẹ hoặc người giám hộ như một người nô lệ, dù con trẻ ấy được quyền thừa hưởng gia sản, nhưng chỉ đến kỳ người cha - chủ gia đình đã định khi con trẻ trưởng thành thì mới được công nhận là chủ của mọi tài sản thừa kế. Ngoài ra, người kế tự còn trẻ phải phụ thuộc hoàn toàn vào những người giám hộ và những người quản gia cho tới lúc trưởng thành.
Câu 3: Phao-lô nói về con dân Chúa cũng như vậy, khi còn là trẻ con, đang chờ hưởng cơ nghiệp Chúa hứa ban, thì buộc chúng con vào sự nô lệ dưới các lề thói của thế gian, là những luật lệ, xã hội, tôn giáo đến từ loài người. Trong thời Phao-lô, dân I-sơ-ra-ên đã bị cai trị bởi các điều răn, luật pháp của Thiên Chúa, do thế gian làm sai trệch, và cho đến ngày nay, nhiều hệ tư tưởng tôn giáo vẫn đang được nhiều người ngưỡng mộ.
Câu 4-5: Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn vẹn trong chương trình cứu chuộc nhân loại tội lỗi, Đức Chúa Trời sai Con Ngài, là Thiên Chúa Ngôi Hai, đến thế gian, được thai dựng trong lòng trinh nữ Ma-ri, sinh ra trong thân thể xác thịt loài người, chịu sự ràng buộc, cai trị bởi luật pháp, để chuộc những kẻ đang ở dưới luật pháp, và cho chúng con ngày nay được Ngài nhận làm con nuôi.
Câu 6: Bởi chúng con đã thật lòng ăn năn tội, hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, được trở nên địa vị làm con cái yêu dấu, nên Đức Chúa Trời đã sai Đấng Thần Linh của Con Ngài, ngự vào lòng chúng con, cho chúng con được gọi Đức Chúa Trời bằng danh rất đỗi thân thương, như mối quan hệ giữa một em bé ngây thơ với cha của mình, danh ấy chính là A-ba.
Câu 7-8: Vậy nên, chúng con không còn là nô lệ cho tội lỗi, bị sai khiến làm ra những việc chống nghịch Thiên Chúa, và làm nô lệ cho luật pháp của Ngài. Còn đối với dân ngoại, không thuộc về dân I-sơ-ra-ên vào thời đó, là những người sống ngoài luật pháp được chép trong Thánh Kinh, thì họ đều làm nô lệ cho thế gian, thuộc về ma quỷ. Và khi được trở nên địa vị làm con cái của Đức Chúa Trời, thì chúng con cũng là những người kế tự cơ nghiệp của Thiên Chúa, qua Đấng Christ. Xét về quá khứ, khi chúng con chưa biết Thiên Chúa, thì chúng con đều là những kẻ sống trong tội, làm nô lệ cho các thứ vốn không phải là Thiên Chúa, như vi phạm tất cả các điều răn, luật pháp của Ngài, đắm chìm trong sự mê tín dị đoan, thờ lạy ma quỷ, tôn thờ những sự ô uế ấy ngang bằng Thiên Chúa, bởi sự ngu dại đã khiến chúng con trở nên nô lệ của ma quỷ.
Câu 9: Phao-lô muốn nhắc nhớ con dân Chúa tại Ga-la-ti, và con dân Chúa ngày nay qua hai câu hỏi rằng chúng con đã được biết Thiên Chúa, Đấng yêu thương, công chính, và thánh khiết, Đấng toàn năng có toàn quyền trên muôn loài vạn vật, và lại được Thiên Chúa biết đến, đưa chúng con vào sự tương giao mật thiết với Ngài, ban cho chúng con ơn khôn sáng giữa thế gian để mạnh mẽ bước đi theo sự sáng của Ngài, thì chúng con không thể quay về với đời sống cũ theo lề thói yếu đuối, nghèo khó đức tin nữa. Chúng con được sống tự do trong tình yêu, ân điển của Chúa thì không còn muốn làm nô lệ trở lại nữa. Điều này nhắc nhớ chúng con, hãy luôn tra xét lòng mình, tỉnh thức trong mọi hoàn cảnh trước mưu kế của ma quỷ, sống xứng đáng trong ân điển của Chúa.
Câu 10: Qua sự cảm động của Đức Thánh Linh, Phao-lô nhắc nhớ con dân Chúa tại Ga-la-ti cũng như chúng con ngày nay về những lề thói mê tín dị đoan của thế gian về những ngày, tháng, mùa, năm, hên, xui. Là những việc chúng con đã từ bỏ từ con người cũ, trở nên con người mới trong Chúa, không được giữ những sự đó, kể cả trong suy nghĩ của mình, để hoàn toàn sống theo sự soi dẫn của Chúa theo Thánh Kinh.
Câu 11: Sau khi Phao-lô giảng dạy giáo lý Tin Lành cho con dân Chúa tại Ga-la-ti, ông vẫn luôn chú tâm sốt sắng, lo lắng cho con dân Chúa tại đó về sự các giáo sư giả dẫn dụ họ đi sai lạc Lẽ Thật, mất đi sự cứu rỗi. Nếu con dẫn Chúa bị tà giáo khiến họ không sống theo những lời ông đã giảng dạy, thì công sức lao lực trong sự giảng dạy của ông sẽ trở thành vô ích.
Lạy Chúa!
Bài học hôm nay dạy con nhận biết rõ về con người cũ thuộc về thế gian, và con người mới thuộc về Thiên Chúa. Con không còn giữ việc làm mê tín dị đoan nào của thế gian. Con đã được Chúa đưa con ra khỏi đời sống nô lệ, trở về với sự tự do trong Đấng Christ, được ban năng lực để giữ trọn các điều răn, luật pháp của Thiên Chúa theo thánh ý Ngài. Con đã được ở trong sự cứu rỗi, trở nên con người mới trong Chúa, được Ngài yêu thương, nâng đỡ trong mọi sự trên bước đường trở về Nhà Cha - quê hương đời đời mà Ngài đã sắm sẵn. A-men!
Trong ân điển của Đức Chúa Jesus Christ.
Con, Đặng Thái Học
22/08/2023