Nguyễn Ngọc Tú: Khải Huyền 14:1-7 Một Trăm Bốn Mươi Bốn Ngàn Người Được Tuyển Chọn Từ Muôn Dân và Tin Lành Vĩnh Cửu Được Thiên Sứ Giảng cho Muôn Dân
Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Yêu Thương của con,
Con cảm tạ Cha đã gìn giữ gia đình con qua một ngày bình an. Con cảm tạ Cha vì mỗi ngày Ngài vẫn ban ơn trên mọi việc tay chúng con làm. Con cảm tạ Cha vì giờ này Ngài ban cho con có thời gian yên tĩnh để cầu nguyện và viết bài suy ngẫm. Con xin ghi lại sự suy ngẫm của con về Khải Huyền 14:1-7.
1 Tôi đã nhìn xem, và kìa, Chiên Con đã đứng trên Núi Si-ôn, với Ngài là một trăm bốn mươi bốn ngàn người có tên của Cha Ngài viết trên trán của họ.
Câu 1: Thưa Cha, qua sự chú giải của người chăn mà con hiểu được rằng, Núi Si-ôn được nói đến ở đây là Núi Si-ôn ở trên thiên đàng. Dựa vào câu 4 có thể hiểu rằng 144.000 người này là các thánh đồ trong Hội Thánh. 2 Tôi đã nghe một tiếng từ trời như tiếng của nhiều dòng nước, như tiếng sấm vang lớn. Tiếng mà tôi đã nghe như tiếng của những người khảy hạc cầm đang khảy những hạc cầm của họ. 3 Họ đang hát một bài ca mới trước ngai, trước bốn sinh vật, và trước các trưởng lão. Không ai có thể học được bài ca, ngoại trừ một trăm bốn mươi bốn ngàn người đã được cứu chuộc khỏi đất.
Câu 2 và 3: Con hiểu rằng, tiếng hát như "tiếng của nhiều dòng nước, như tiếng sấm vang lớn" thể hiện mạnh mẽ và oai hùng, đồng thời gợi lên hình ảnh của một dàn hợp xướng. Điều này thể hiện sự hợp nhất của các thánh đồ trong sự tôn vinh Chúa.
4 Họ là những người chưa bị ô uế với đàn bà vì họ là trinh khiết. Họ là những người đi theo Chiên Con bất cứ nơi nào Ngài đi. Họ đã được cứu chuộc giữa loài người, là những trái đầu mùa cho Đức Chúa Trời và Chiên Con. 5 Trong miệng của họ đã không tìm thấy lời dối trá. Họ là không tì vết trước ngai của Đức Chúa Trời.
Câu 4 và 5: Con hiểu rằng, hai câu này cho biết thêm chi tiết về 144.000 thánh đồ đặc biệt. Họ là những người nam chưa từng có mối quan hệ tà dâm với phụ nữ và có nếp sống hoàn toàn thánh khiết kể từ lúc tin nhận Chúa.
6 Tôi đã thấy một thiên sứ khác bay trong giữa trời, có Tin Lành Vĩnh Cửu giảng cho những cư dân trên đất: cho mỗi quốc gia, chi tộc, ngôn ngữ, và dân tộc. 7 Người truyền với tiếng lớn: "Hãy kính sợ Đức Chúa Trời và dâng Ngài sự vinh quang! Vì giờ phán xét của Ngài đã đến. Hãy thờ phượng Đấng đã làm nên trời, đất, biển, và các nguồn nước.
Câu 5 và 6: Con nghĩ rằng, thiên sứ công bố Tin Lành bằng một ngôn ngữ nhưng khi đến tai mỗi người nghe thì nghe như ngôn ngữ của người ấy. Như vậy, trong Kỳ Đại Nạn, Chúa vẫn rất thương xót loài người, ban cho họ cơ hội tin nhận Tin Lành qua 144.000 người I-sơ-ra-ên, hai chứng nhân của Chúa, và qua sự rao giảng của một thiên sứ. Trong đó, lời rao giảng của thiên sứ là đến với mỗi người thuộc mỗi quốc gia, chi tộc, ngôn ngữ, và dân tộc. Nghĩa là không có ai mà không được nghe giảng Tin Lành. Vì thế, nếu một người không ăn năn là do họ quyết tâm lựa chọn như vậy, không có cách gì để khiến họ có thể ăn năn.
Con cảm tạ Cha đã ban cho con những sự hiểu trên đây. Con cảm tạ Cha hôm nay cũng ban cho các anh em có một buổi lao động bình an. Nguyện xin Cha cũng ban ơn trên việc trồng trọt của chúng con. Con cảm tạ Cha. A-men.
Trong ân điển của Đức Chúa Jesus Christ. Nguyễn Ngọc Tú
Nguyễn Ngọc Tú: Khải Huyền 14:1-7 Một Trăm Bốn Mươi Bốn Ngàn Người Được Tuyển Chọn Từ Muôn Dân và Tin Lành Vĩnh Cửu Được Thiên Sứ Giảng cho Muôn Dân
Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Yêu Thương của con,
Con cảm tạ Cha đã gìn giữ gia đình con qua một ngày bình an. Con cảm tạ Cha vì mỗi ngày Ngài vẫn ban ơn trên mọi việc tay chúng con làm. Con cảm tạ Cha vì giờ này Ngài ban cho con có thời gian yên tĩnh để cầu nguyện và viết bài suy ngẫm. Con xin ghi lại sự suy ngẫm của con về Khải Huyền 14:1-7.
1 Tôi đã nhìn xem, và kìa, Chiên Con đã đứng trên Núi Si-ôn, với Ngài là một trăm bốn mươi bốn ngàn người có tên của Cha Ngài viết trên trán của họ.
Câu 1: Thưa Cha, qua sự chú giải của người chăn mà con hiểu được rằng, Núi Si-ôn được nói đến ở đây là Núi Si-ôn ở trên thiên đàng. Dựa vào câu 4 có thể hiểu rằng 144.000 người này là các thánh đồ trong Hội Thánh.
2 Tôi đã nghe một tiếng từ trời như tiếng của nhiều dòng nước, như tiếng sấm vang lớn. Tiếng mà tôi đã nghe như tiếng của những người khảy hạc cầm đang khảy những hạc cầm của họ.
3 Họ đang hát một bài ca mới trước ngai, trước bốn sinh vật, và trước các trưởng lão. Không ai có thể học được bài ca, ngoại trừ một trăm bốn mươi bốn ngàn người đã được cứu chuộc khỏi đất.
Câu 2 và 3: Con hiểu rằng, tiếng hát như "tiếng của nhiều dòng nước, như tiếng sấm vang lớn" thể hiện mạnh mẽ và oai hùng, đồng thời gợi lên hình ảnh của một dàn hợp xướng. Điều này thể hiện sự hợp nhất của các thánh đồ trong sự tôn vinh Chúa.
4 Họ là những người chưa bị ô uế với đàn bà vì họ là trinh khiết. Họ là những người đi theo Chiên Con bất cứ nơi nào Ngài đi. Họ đã được cứu chuộc giữa loài người, là những trái đầu mùa cho Đức Chúa Trời và Chiên Con.
5 Trong miệng của họ đã không tìm thấy lời dối trá. Họ là không tì vết trước ngai của Đức Chúa Trời.
Câu 4 và 5: Con hiểu rằng, hai câu này cho biết thêm chi tiết về 144.000 thánh đồ đặc biệt. Họ là những người nam chưa từng có mối quan hệ tà dâm với phụ nữ và có nếp sống hoàn toàn thánh khiết kể từ lúc tin nhận Chúa.
6 Tôi đã thấy một thiên sứ khác bay trong giữa trời, có Tin Lành Vĩnh Cửu giảng cho những cư dân trên đất: cho mỗi quốc gia, chi tộc, ngôn ngữ, và dân tộc.
7 Người truyền với tiếng lớn: "Hãy kính sợ Đức Chúa Trời và dâng Ngài sự vinh quang! Vì giờ phán xét của Ngài đã đến. Hãy thờ phượng Đấng đã làm nên trời, đất, biển, và các nguồn nước.
Câu 5 và 6: Con nghĩ rằng, thiên sứ công bố Tin Lành bằng một ngôn ngữ nhưng khi đến tai mỗi người nghe thì nghe như ngôn ngữ của người ấy. Như vậy, trong Kỳ Đại Nạn, Chúa vẫn rất thương xót loài người, ban cho họ cơ hội tin nhận Tin Lành qua 144.000 người I-sơ-ra-ên, hai chứng nhân của Chúa, và qua sự rao giảng của một thiên sứ. Trong đó, lời rao giảng của thiên sứ là đến với mỗi người thuộc mỗi quốc gia, chi tộc, ngôn ngữ, và dân tộc. Nghĩa là không có ai mà không được nghe giảng Tin Lành. Vì thế, nếu một người không ăn năn là do họ quyết tâm lựa chọn như vậy, không có cách gì để khiến họ có thể ăn năn.
Con cảm tạ Cha đã ban cho con những sự hiểu trên đây. Con cảm tạ Cha hôm nay cũng ban cho các anh em có một buổi lao động bình an. Nguyện xin Cha cũng ban ơn trên việc trồng trọt của chúng con. Con cảm tạ Cha. A-men.
Trong ân điển của Đức Chúa Jesus Christ.
Nguyễn Ngọc Tú