Nguyễn Ngọc Tú: Hê-bơ-rơ 11:32-40 Đức Tin và Gương Đức Tin – Phần 6
Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Yêu Thương của con,
Con cảm tạ Cha vì một ngày mới nữa Ngài ban cho chúng con. Xin Cha ban ơn cho mọi việc tay chúng con làm trong ngày hôm nay. Con xin ghi lại sự suy ngẫm của con về phân đoạn Hê-bơ-rơ 11:32-40.
32 Tôi sẽ còn nói gì nữa? Vì thời gian không đủ cho tôi để nói về Ghê-đê-ôn, Ba-rác, Sam-sôn, Giép-thê, Đa-vít, Sa-mu-ên, và các tiên tri.
Câu 32: Thưa Cha, con hiểu rằng, những anh hùng đức tin được Phao-lô nhắc đến trong câu này chỉ là một phần tiêu biểu. Vì dân I-sơ-ra-ên rất quen thuộc với Cựu Ước nên Phao-lô chỉ đề cập ngắn gọn để nhắc cho thấy một điểm chung của các anh hùng đức tin: thể hiện đức tin bằng hành động cụ thể, là làm y theo mọi điều Chúa truyền dạy.
33 Những người đó bởi đức tin đã thắng được các nước, làm sự công chính, nhận được những lời hứa, bịt mồm những sư tử,
34 dập tắt quyền của lửa, lánh khỏi lưỡi gươm, ra khỏi bệnh tật, được mạnh mẽ, trở nên dũng mãnh trong chiến tranh, khiến lui đi các đạo binh của ngoại quốc.
Câu 33 và 34: Con hiểu rằng, "thắng được các nước" là thắng được các dân thù nghịch dân I-sơ-ra-ên. "Làm sự công chính" là làm những điều theo ý muốn của Đức Chúa Trời.
"Nhận được những lời hứa" là những lời hứa ban phước của Chúa về thuộc thể lẫn thuộc linh.
"Bịt mồm những sư tử" là nói đến sự kiện Tiên Tri Đa-ni-ên bị triều thần của Vua Đa-ri-út lập kế hãm hại, ném ông vào hang sư tử. Nhưng thiên sứ của Chúa đã bịt miệng các sư tử không cho làm hại gì đến Đa-ni-ên. Sau đó, Vua Đa-ri-út thấy Đa-ni-ên vẫn bình an vô sự thì mừng rỡ, sai đem ông ra khỏi hang sư tử, rồi truyền đem những kẻ hãm hại ông ném vào hang sư tử.
"Dập tắt quyền của lửa" là nói đến sự kiện ba người bạn của Đa-ni-ên bị Vua Nê-bu-cát-nết-sa ném vào trong lò lửa, vì họ kính sợ Thiên Chúa mà không chịu thờ lạy tượng của vua. Nhưng Chúa đã gìn giữ họ, đến nỗi khi bước ra khỏi lò lửa thì mùi của lửa cũng không có trên họ.
"Lánh khỏi lưỡi gươm" là được Chúa cứu thoát khỏi sự truy sát của kẻ thù, như Đa-vít thoát khỏi sự truy sát của Vua Sau-lơ.
"Ra khỏi bệnh tật" là được chữa khỏi mọi thứ tật bệnh, như Na-a-man, quan tổng binh của Vua Si-ri (II Các Vua 5); Vua Ê-xê-chia được chữa khỏi cơn bệnh nặng gần chết và sống thêm được 15 năm.
"Được mạnh mẽ, trở nên dũng mãnh trong chiến tranh, khiến lui đi các đạo binh của ngoại quốc" là nói đến những anh hùng đức tin trong sự tranh chiến với các dân thù nghịch như: Giô-suê, Ba-rác, Ghê-đê-ôn, Giép-thê, Sam-sôn, Đa-vít...
Ngày nay, con dân Chúa cũng bởi đức tin mà thắng được sự bách hại của loài người và ma quỷ; làm ra những việc lành mà Chúa đã sắm sẵn cho; nhận được ơn phước của Chúa trên đời sống thuộc linh lẫn thuộc thể; dập tắt được mọi mưu kế của ma quỷ; có lòng can đảm chịu khổ vì danh Chúa.
35 Có những người đàn bà đã được những người chết của họ sống lại. Những người khác đã bị tra tấn mà không chịu nhận sự cứu chuộc, để họ được sự sống lại tốt hơn.
Câu 35: Con hiểu rằng, "những người đàn bà đã được những người chết của họ sống lại" là nói đến hai người đàn bà ở Sa-rép-ta (I Các Vua 17:17-24) và Su-nem (II Các Vua 4:32-37). Cả hai người đều được Thiên Chúa làm phép lạ làm sống lại hai đứa con đã chết. Trong đó người đàn bà Sa-rép-ta là một người ngoại, điều này cho thấy Đức Chúa Trời đoái thương và làm ơn cho tất cả ai có lòng tin kính Chúa trong suốt dòng lịch sử của loài người.
"Những người khác đã bị tra tấn mà không chịu nhận sự cứu chuộc, để họ được sự sống lại tốt hơn" là những người thà chết chứ không chịu chối bỏ đức tin nơi Chúa. Lòng can đảm của họ là dựa trên đức tin chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ ban cho họ sự sống lại tốt hơn trong đời sau.
36 Những người khác đã trải qua những sự chê cười, những sự đánh đập, lại cũng chịu sự xiềng xích và sự lao tù nữa.
37 Họ đã bị ném đá. Họ đã bị cưa làm hai. Họ đã bị thử thách, bị giết bằng gươm. Họ đã lang thang trong những da chiên và những da dê, bị thiếu thốn, bị hà hiếp, bị ngược đãi.
38 Thế gian đã không xứng đáng đối với họ. Họ đã lang thang trong những đồng vắng, những núi non, những hang và những hầm của đất.
Từ câu 36 đến 38: Con hiểu rằng, những sự hoạn nạn, những cực hình trong ba câu này là xảy ra với con dân chân thật của Chúa trong khắp các thời đại.
"Thế gian đã không xứng đáng đối với họ" có nghĩa là thế gian ghen ghét bách hại con dân Chúa, xua đuổi họ vào những nơi "rừng thiêng nước độc", mà cũng có nghĩa là con dân Chúa đã quá chán ngán với thực trạng băng hoại của thế gian. Con dân Chúa khi còn trong thế gian thì hết lòng sống cho Chúa nhưng lòng thì luôn mong ngóng Chúa mau đến, vương quyền của Ngài sớm thể hiện trên đất (Lu-ca 11:2).
39 Hết thảy những người ấy bởi đức tin đã được làm chứng tốt, nhưng chưa nhận được lời hứa.
Câu 39: Con hiểu rằng, những thánh đồ thời Cựu Ước chưa nhận được lời hứa là lời hứa về sự thân thể xác thịt được sống lại trong vinh quang bất tử, và về những quyền lợi sẽ nhận được khi bước vào Vương Quốc Trời trong thời kỳ Vương Quốc Ngàn Năm và thời kỳ Trời Mới Đất Mới.
40 Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước những điều tốt hơn cho chúng ta, mà nếu không có chúng ta thì chúng không được trọn vẹn.
Câu 40: Con hiểu rằng, mục đích của Đức Chúa Trời khi dựng nên loài người là để họ làm con trai, con gái của Ngài, vui hưởng mọi công trình sáng tạo khác của Ngài. Vì thế mà nếu không có loài người thì mọi tạo vật khác sẽ không được trọn vẹn.
Con cảm tạ Cha đã ban cho con những sự hiểu trên đây. Khi xem các phim mô phỏng về vũ trụ thì con thấy thế giới hiện tại đã rất là kỳ vĩ, xinh đẹp, nên chắc chắn là trong trời mới đất mới mọi tạo vật còn tuyệt vời hơn nhiều lần. Con nghĩ là khi con dân Chúa thường xuyên để lòng suy tưởng về cuộc sống đời sau cũng là một phương cách hay để giùm mình tăng trưởng đức tin trong Chúa, giúp mình chịu được những gian khổ trong cuộc sống hiện tại. Nguyện xin Cha giờ này cũng tiếp tục ban ơn cho công việc làm kiếm sống của con. Con cảm tạ Cha. A-men.
Trong ân điển của Đức Chúa Jesus Christ.
Nguyễn Ngọc Tú
Nguyễn Ngọc Tú: Hê-bơ-rơ 11:32-40 Đức Tin và Gương Đức Tin – Phần 6
Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Yêu Thương của con,
Con cảm tạ Cha vì một ngày mới nữa Ngài ban cho chúng con. Xin Cha ban ơn cho mọi việc tay chúng con làm trong ngày hôm nay. Con xin ghi lại sự suy ngẫm của con về phân đoạn Hê-bơ-rơ 11:32-40.
32 Tôi sẽ còn nói gì nữa? Vì thời gian không đủ cho tôi để nói về Ghê-đê-ôn, Ba-rác, Sam-sôn, Giép-thê, Đa-vít, Sa-mu-ên, và các tiên tri.
Câu 32: Thưa Cha, con hiểu rằng, những anh hùng đức tin được Phao-lô nhắc đến trong câu này chỉ là một phần tiêu biểu. Vì dân I-sơ-ra-ên rất quen thuộc với Cựu Ước nên Phao-lô chỉ đề cập ngắn gọn để nhắc cho thấy một điểm chung của các anh hùng đức tin: thể hiện đức tin bằng hành động cụ thể, là làm y theo mọi điều Chúa truyền dạy.
33 Những người đó bởi đức tin đã thắng được các nước, làm sự công chính, nhận được những lời hứa, bịt mồm những sư tử,
34 dập tắt quyền của lửa, lánh khỏi lưỡi gươm, ra khỏi bệnh tật, được mạnh mẽ, trở nên dũng mãnh trong chiến tranh, khiến lui đi các đạo binh của ngoại quốc.
Câu 33 và 34: Con hiểu rằng, "thắng được các nước" là thắng được các dân thù nghịch dân I-sơ-ra-ên. "Làm sự công chính" là làm những điều theo ý muốn của Đức Chúa Trời.
"Nhận được những lời hứa" là những lời hứa ban phước của Chúa về thuộc thể lẫn thuộc linh.
"Bịt mồm những sư tử" là nói đến sự kiện Tiên Tri Đa-ni-ên bị triều thần của Vua Đa-ri-út lập kế hãm hại, ném ông vào hang sư tử. Nhưng thiên sứ của Chúa đã bịt miệng các sư tử không cho làm hại gì đến Đa-ni-ên. Sau đó, Vua Đa-ri-út thấy Đa-ni-ên vẫn bình an vô sự thì mừng rỡ, sai đem ông ra khỏi hang sư tử, rồi truyền đem những kẻ hãm hại ông ném vào hang sư tử.
"Dập tắt quyền của lửa" là nói đến sự kiện ba người bạn của Đa-ni-ên bị Vua Nê-bu-cát-nết-sa ném vào trong lò lửa, vì họ kính sợ Thiên Chúa mà không chịu thờ lạy tượng của vua. Nhưng Chúa đã gìn giữ họ, đến nỗi khi bước ra khỏi lò lửa thì mùi của lửa cũng không có trên họ.
"Lánh khỏi lưỡi gươm" là được Chúa cứu thoát khỏi sự truy sát của kẻ thù, như Đa-vít thoát khỏi sự truy sát của Vua Sau-lơ.
"Ra khỏi bệnh tật" là được chữa khỏi mọi thứ tật bệnh, như Na-a-man, quan tổng binh của Vua Si-ri (II Các Vua 5); Vua Ê-xê-chia được chữa khỏi cơn bệnh nặng gần chết và sống thêm được 15 năm.
"Được mạnh mẽ, trở nên dũng mãnh trong chiến tranh, khiến lui đi các đạo binh của ngoại quốc" là nói đến những anh hùng đức tin trong sự tranh chiến với các dân thù nghịch như: Giô-suê, Ba-rác, Ghê-đê-ôn, Giép-thê, Sam-sôn, Đa-vít...
Ngày nay, con dân Chúa cũng bởi đức tin mà thắng được sự bách hại của loài người và ma quỷ; làm ra những việc lành mà Chúa đã sắm sẵn cho; nhận được ơn phước của Chúa trên đời sống thuộc linh lẫn thuộc thể; dập tắt được mọi mưu kế của ma quỷ; có lòng can đảm chịu khổ vì danh Chúa.
35 Có những người đàn bà đã được những người chết của họ sống lại. Những người khác đã bị tra tấn mà không chịu nhận sự cứu chuộc, để họ được sự sống lại tốt hơn.
Câu 35: Con hiểu rằng, "những người đàn bà đã được những người chết của họ sống lại" là nói đến hai người đàn bà ở Sa-rép-ta (I Các Vua 17:17-24) và Su-nem (II Các Vua 4:32-37). Cả hai người đều được Thiên Chúa làm phép lạ làm sống lại hai đứa con đã chết. Trong đó người đàn bà Sa-rép-ta là một người ngoại, điều này cho thấy Đức Chúa Trời đoái thương và làm ơn cho tất cả ai có lòng tin kính Chúa trong suốt dòng lịch sử của loài người.
"Những người khác đã bị tra tấn mà không chịu nhận sự cứu chuộc, để họ được sự sống lại tốt hơn" là những người thà chết chứ không chịu chối bỏ đức tin nơi Chúa. Lòng can đảm của họ là dựa trên đức tin chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ ban cho họ sự sống lại tốt hơn trong đời sau.
36 Những người khác đã trải qua những sự chê cười, những sự đánh đập, lại cũng chịu sự xiềng xích và sự lao tù nữa.
37 Họ đã bị ném đá. Họ đã bị cưa làm hai. Họ đã bị thử thách, bị giết bằng gươm. Họ đã lang thang trong những da chiên và những da dê, bị thiếu thốn, bị hà hiếp, bị ngược đãi.
38 Thế gian đã không xứng đáng đối với họ. Họ đã lang thang trong những đồng vắng, những núi non, những hang và những hầm của đất.
Từ câu 36 đến 38: Con hiểu rằng, những sự hoạn nạn, những cực hình trong ba câu này là xảy ra với con dân chân thật của Chúa trong khắp các thời đại.
"Thế gian đã không xứng đáng đối với họ" có nghĩa là thế gian ghen ghét bách hại con dân Chúa, xua đuổi họ vào những nơi "rừng thiêng nước độc", mà cũng có nghĩa là con dân Chúa đã quá chán ngán với thực trạng băng hoại của thế gian. Con dân Chúa khi còn trong thế gian thì hết lòng sống cho Chúa nhưng lòng thì luôn mong ngóng Chúa mau đến, vương quyền của Ngài sớm thể hiện trên đất (Lu-ca 11:2).
39 Hết thảy những người ấy bởi đức tin đã được làm chứng tốt, nhưng chưa nhận được lời hứa.
Câu 39: Con hiểu rằng, những thánh đồ thời Cựu Ước chưa nhận được lời hứa là lời hứa về sự thân thể xác thịt được sống lại trong vinh quang bất tử, và về những quyền lợi sẽ nhận được khi bước vào Vương Quốc Trời trong thời kỳ Vương Quốc Ngàn Năm và thời kỳ Trời Mới Đất Mới.
40 Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước những điều tốt hơn cho chúng ta, mà nếu không có chúng ta thì chúng không được trọn vẹn.
Câu 40: Con hiểu rằng, mục đích của Đức Chúa Trời khi dựng nên loài người là để họ làm con trai, con gái của Ngài, vui hưởng mọi công trình sáng tạo khác của Ngài. Vì thế mà nếu không có loài người thì mọi tạo vật khác sẽ không được trọn vẹn.
Con cảm tạ Cha đã ban cho con những sự hiểu trên đây. Khi xem các phim mô phỏng về vũ trụ thì con thấy thế giới hiện tại đã rất là kỳ vĩ, xinh đẹp, nên chắc chắn là trong trời mới đất mới mọi tạo vật còn tuyệt vời hơn nhiều lần. Con nghĩ là khi con dân Chúa thường xuyên để lòng suy tưởng về cuộc sống đời sau cũng là một phương cách hay để giùm mình tăng trưởng đức tin trong Chúa, giúp mình chịu được những gian khổ trong cuộc sống hiện tại. Nguyện xin Cha giờ này cũng tiếp tục ban ơn cho công việc làm kiếm sống của con. Con cảm tạ Cha. A-men.
Trong ân điển của Đức Chúa Jesus Christ.
Nguyễn Ngọc Tú
...