Nguyễn Ngọc Tú: I Giăng 5:6-13 Chứng Cớ về Đấng Christ và Sự Sống Đời Đời
Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Yêu Thương của con,
Con cảm tạ Cha đã ban cho gia đình con một ngày Sa-bát bình an. Con cảm tạ Cha vì giờ này Ngài ban cho con có thời gian yên tĩnh để cầu nguyện và viết bài suy ngẫm. Con xin ghi lại sự suy ngẫm của con về phân đoạn I Giăng 5:6-13.
6 Ấy chính Đức Chúa Jesus Christ đã lấy nước và máu mà đến, chẳng những lấy nước mà thôi, mà là lấy nước và máu. Ấy là Đấng Thần Linh làm chứng, vì Đấng Thần Linh là Lẽ Thật.
7 Vì có ba chứng ở trên trời: Đức Cha, Ngôi Lời, và Đức Thánh Linh. Ba chứng này là một.
8 Và có ba chứng ở trên đất: Đấng Thần Linh, nước, và máu. Ba chứng này thuận làm một.
Từ câu 6 đến câu 8: Thưa Cha, con hiểu rằng, phân đoạn này Sứ Đồ Giăng trình bày các chứng cứ về sự kiện Đức Chúa Jesus là Con Đức Chúa Trời, là Đấng Christ.
Con nghĩ rằng, ba chứng ở trên trời là lời công bố của Thiên Chúa ở trên trời về sự ra đời của hài nhi Jesus như được ghi chép trong Lu-ca 2:8-14. Tuyên bố rằng hài nhi Jesus vừa mới được sinh ra đó là Đấng Cứu Rỗi (Lu-ca 2:110). Vì thế mà cả thiên binh đã cất tiếng tôn vinh Đức Chúa Trời (Lu-ca 2:13).
Ba chứng ở trên đất là Đấng Thần Linh, nước, và máu, bao gồm các ý nghĩa:
- Đấng Thần Linh: là nói đến sự Đức Chúa Jesus làm ra các dấu kì, phép lạ bởi năng lực của Đấng Thần Linh.
- Nước: chính là phép báp-tem trong nước vào trong sự thương khó mà Đức Chúa Jesus chịu dưới sông Giô-đanh.
- Máu: chính là sự Đức Chúa Jesus đổ máy trên thập tự giá để đền tội cho nhân loại. Chính nhờ sự đổ máu của Ngài đã mang lại sự sống cho những ai thật lòng ăn năn tội và tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài.
"Ba chứng này thuận làm một" có nghĩa là năng lực của Đấng Thần Linh, sự chịu thương khó, và sự đổ máu đều đã được bày tỏ trọn vẹn bởi Đức Chúa Jesus. Vì thế chắc chắn Ngài là Đấng Christ.
9 Nếu như chúng ta nhận chứng của loài người, thì chứng của Đức Chúa Trời trọng hơn; vì này là chứng của Đức Chúa Trời, ấy là Ngài làm chứng về Con Ngài.
Câu 9: Con hiểu rằng, loài người vẫn thường tin vào các nghiên cứu mà đưa ra được các chứng cứ để chứng minh đó là sự thật. Thí dụ như trong lịch sử, chứng cứ có thể là các tài liệu lịch sử, kết hợp với các di tích khảo cổ, hoặc đối chiếu với các nguồn thông tin khác về các sự kiện trong quá khứ. Vì thế, việc tin rằng Đức Chúa Jesus là Đấng Christ với các chứng cứ được Thánh Kinh trình bày là điều hết sức hợp lý.
10 Ai tin đến Con Đức Chúa Trời, thì có chứng ấy trong mình; còn ai không tin Đức Chúa Trời, thì cho Ngài là kẻ nói dối, vì chẳng tin đến chứng Đức Chúa Trời đã làm về Con Ngài.
11 Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống vĩnh cửu cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài.
Câu 10 và 11: Con hiểu rằng, tất nhiên là có nhiều người không tin các chứng cứ của Thánh Kinh. Nên sau khi đã giảng Tin Lành cho họ thì con dân Chúa không cần bận tâm. Tâm trí họ đã cho Đức Chúa Trời là kẻ nói dối thì họ không thể tiếp nhận được bất cứ lời nào ra từ con dân của Ngài. Ngược lại, một người được Đức Thánh Linh ban cho đức tin để có thể tin nhận Tin Lành thì tâm trí họ sẽ bừng sáng khi nghe con dân Chúa nói về Chúa.
12 Ai có Đức Con thì có sự sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống.
13 Ta đã viết những điều này cho các con, những người tin đến danh của Con Đức Chúa Trời, để các con biết rằng, các con có sự sống vĩnh cửu và để các con tin đến danh của Con Đức Chúa Trời.
Câu 12 và 13: Con hiểu rằng, sự sống ở đây là sự sống thuộc linh, tức là sự tương giao mật thiết và liên tục với Thiên Chúa. "Có Đức Con" là có mối tương giao mật thiết với Đức Chúa Jesus Christ.
"Tin đến danh của Con Đức Chúa Trời" là tin danh Jesus Christ, là tin rằng Ngài là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu đã nhập thế làm người để cứu chuộc nhân loại.
Điều thú vị là Giăng viết thư tín này cho các thánh đồ trong Hội Thánh, là những người đã tin đến danh của Con Đức Chúa Trời, nhưng ông vẫn viết để họ "tin đến danh của Con Đức Chúa Trời". Có lẽ, ý nghĩa chính là Giăng muốn con dân Chúa cứ tiếp tục nuôi mình trong danh ấy, bằng cách: Thường xuyên cầu nguyện trong danh Jesus Christ; thường xuyên nhân danh Jesus Christ để xua đuổi mọi sự cám dỗ và mọi tà linh cám dỗ; thường xuyên kêu cầu danh Jesus Christ cứu mình thoát khỏi cám dỗ phạm tội.
Con cảm tạ Cha đã ban cho con những sự hiểu trên đây. Giờ này nguyện xin Cha ban cho gia đình con một giấc ngủ ngon và chuẩn bị thật tốt cho buổi nhóm Ấu Nhi sáng ngày mai. Con cảm tạ Cha. A-men.
Trong ân điển của Đức Chúa Jesus Christ.
Nguyễn Ngọc Tú ...
Nguyễn Ngọc Tú: I Giăng 5:6-13 Chứng Cớ về Đấng Christ và Sự Sống Đời Đời
Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Yêu Thương của con,
Con cảm tạ Cha đã ban cho gia đình con một ngày Sa-bát bình an. Con cảm tạ Cha vì giờ này Ngài ban cho con có thời gian yên tĩnh để cầu nguyện và viết bài suy ngẫm. Con xin ghi lại sự suy ngẫm của con về phân đoạn I Giăng 5:6-13.
6 Ấy chính Đức Chúa Jesus Christ đã lấy nước và máu mà đến, chẳng những lấy nước mà thôi, mà là lấy nước và máu. Ấy là Đấng Thần Linh làm chứng, vì Đấng Thần Linh là Lẽ Thật.
7 Vì có ba chứng ở trên trời: Đức Cha, Ngôi Lời, và Đức Thánh Linh. Ba chứng này là một.
8 Và có ba chứng ở trên đất: Đấng Thần Linh, nước, và máu. Ba chứng này thuận làm một.
Từ câu 6 đến câu 8: Thưa Cha, con hiểu rằng, phân đoạn này Sứ Đồ Giăng trình bày các chứng cứ về sự kiện Đức Chúa Jesus là Con Đức Chúa Trời, là Đấng Christ.
Con nghĩ rằng, ba chứng ở trên trời là lời công bố của Thiên Chúa ở trên trời về sự ra đời của hài nhi Jesus như được ghi chép trong Lu-ca 2:8-14. Tuyên bố rằng hài nhi Jesus vừa mới được sinh ra đó là Đấng Cứu Rỗi (Lu-ca 2:110). Vì thế mà cả thiên binh đã cất tiếng tôn vinh Đức Chúa Trời (Lu-ca 2:13).
Ba chứng ở trên đất là Đấng Thần Linh, nước, và máu, bao gồm các ý nghĩa:
- Đấng Thần Linh: là nói đến sự Đức Chúa Jesus làm ra các dấu kì, phép lạ bởi năng lực của Đấng Thần Linh.
- Nước: chính là phép báp-tem trong nước vào trong sự thương khó mà Đức Chúa Jesus chịu dưới sông Giô-đanh.
- Máu: chính là sự Đức Chúa Jesus đổ máy trên thập tự giá để đền tội cho nhân loại. Chính nhờ sự đổ máu của Ngài đã mang lại sự sống cho những ai thật lòng ăn năn tội và tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài.
"Ba chứng này thuận làm một" có nghĩa là năng lực của Đấng Thần Linh, sự chịu thương khó, và sự đổ máu đều đã được bày tỏ trọn vẹn bởi Đức Chúa Jesus. Vì thế chắc chắn Ngài là Đấng Christ.
9 Nếu như chúng ta nhận chứng của loài người, thì chứng của Đức Chúa Trời trọng hơn; vì này là chứng của Đức Chúa Trời, ấy là Ngài làm chứng về Con Ngài.
Câu 9: Con hiểu rằng, loài người vẫn thường tin vào các nghiên cứu mà đưa ra được các chứng cứ để chứng minh đó là sự thật. Thí dụ như trong lịch sử, chứng cứ có thể là các tài liệu lịch sử, kết hợp với các di tích khảo cổ, hoặc đối chiếu với các nguồn thông tin khác về các sự kiện trong quá khứ. Vì thế, việc tin rằng Đức Chúa Jesus là Đấng Christ với các chứng cứ được Thánh Kinh trình bày là điều hết sức hợp lý.
10 Ai tin đến Con Đức Chúa Trời, thì có chứng ấy trong mình; còn ai không tin Đức Chúa Trời, thì cho Ngài là kẻ nói dối, vì chẳng tin đến chứng Đức Chúa Trời đã làm về Con Ngài.
11 Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống vĩnh cửu cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài.
Câu 10 và 11: Con hiểu rằng, tất nhiên là có nhiều người không tin các chứng cứ của Thánh Kinh. Nên sau khi đã giảng Tin Lành cho họ thì con dân Chúa không cần bận tâm. Tâm trí họ đã cho Đức Chúa Trời là kẻ nói dối thì họ không thể tiếp nhận được bất cứ lời nào ra từ con dân của Ngài. Ngược lại, một người được Đức Thánh Linh ban cho đức tin để có thể tin nhận Tin Lành thì tâm trí họ sẽ bừng sáng khi nghe con dân Chúa nói về Chúa.
12 Ai có Đức Con thì có sự sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống.
13 Ta đã viết những điều này cho các con, những người tin đến danh của Con Đức Chúa Trời, để các con biết rằng, các con có sự sống vĩnh cửu và để các con tin đến danh của Con Đức Chúa Trời.
Câu 12 và 13: Con hiểu rằng, sự sống ở đây là sự sống thuộc linh, tức là sự tương giao mật thiết và liên tục với Thiên Chúa. "Có Đức Con" là có mối tương giao mật thiết với Đức Chúa Jesus Christ.
"Tin đến danh của Con Đức Chúa Trời" là tin danh Jesus Christ, là tin rằng Ngài là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu đã nhập thế làm người để cứu chuộc nhân loại.
Điều thú vị là Giăng viết thư tín này cho các thánh đồ trong Hội Thánh, là những người đã tin đến danh của Con Đức Chúa Trời, nhưng ông vẫn viết để họ "tin đến danh của Con Đức Chúa Trời". Có lẽ, ý nghĩa chính là Giăng muốn con dân Chúa cứ tiếp tục nuôi mình trong danh ấy, bằng cách: Thường xuyên cầu nguyện trong danh Jesus Christ; thường xuyên nhân danh Jesus Christ để xua đuổi mọi sự cám dỗ và mọi tà linh cám dỗ; thường xuyên kêu cầu danh Jesus Christ cứu mình thoát khỏi cám dỗ phạm tội.
Con cảm tạ Cha đã ban cho con những sự hiểu trên đây. Giờ này nguyện xin Cha ban cho gia đình con một giấc ngủ ngon và chuẩn bị thật tốt cho buổi nhóm Ấu Nhi sáng ngày mai. Con cảm tạ Cha. A-men.
Trong ân điển của Đức Chúa Jesus Christ.
Nguyễn Ngọc Tú
...